1. Dòng sự kiện:
  2. Giải thưởng VinFuture 2024

Phát triển một loại các bon có thể lọc nuclit phóng xạ khỏi nước

(Dân trí) - Sau sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima, hàng trăm triệu gallon nước phóng xạ bị thải loại. Loại nước này vẫn đang được lưu trữ vì không ai biết phải xử lý ra sao. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Rice, Hoa Kỳ và Đại học Liên bang Kazan của Nga đã tìm ra câu trả lời thông qua phát triển một loại các bon có thể lọc nuclit phóng xạ khỏi nước.

Phát triển một loại các bon có thể lọc nuclit phóng xạ khỏi nước - 1

Vật liệu này có tên là cácbon biến đổi oxy hóa (OMC), được chế tạo bằng cách xử lý các hạt các bon hiện có bằng hóa chất oxy hóa để làm tăng diện tích bề mặt của chúng và bổ sung các phân tử oxy vào cấu trúc của chúng. Trên thực tế, hai loại cácbon giá rẻ này được sử dụng vì chúng có tính chất xốp. Một là C - seal F, đã được sử dụng trong ngành công nghiệp dầu mỏ như một thành phần của dung dịch khoan. Hai là shungite xuất hiện tự nhiên chủ yếu là ở Nga.

Trong các thử nghiệm tại lab, OMC có hiệu quả cao trong việc hấp thụ các cation kim loại phóng xạ như caesium và strontium từ nước ô nhiễm. Đây là hai trong số những nguyên tố chính đã được giải phóng vào môi trường khi nhà máy hạt nhân Fukushima tan chảy. OMC cũng có thể hút các nguyên tố thâm nhập vào các tuyến đường thủy trong quá trình khai thác dầu, bao gồm urani, thori và radi.

Theo các nhà khoa học, nước chỉ cần chảy qua bộ lọc OMC một lần duy nhất là có thể đổ thẳng xuống biển. Các bộ lọc đã qua sử dụng sau đó cần được thiêu hủy, để lại một lượng tro phóng xạ tương đối nhỏ.

Nghiên cứu này do James Tour, nhà hóa học tại Trường Đại học Rice và Giáo sư nghiên cứu Ayrat Dimiev tại Trường Đại học Liên bang Kazan dẫn đầu, đã được công bố trên Tạp chí Carbon

Trước đây, James Tour đã hợp tác với các nhà khoa học tại Trường Đại học Lomonosov Moscow trong khuôn khổ dự án sử dụng các tấm graphene oxit để tách các chất ô nhiễm phóng xạ khỏi nước. Mặc dù graphene oxit loại bỏ stronti hiệu quả hơn, nhưng OMC vượt trội về khả năng lọc caesium, hơn nữa, lại ít tốn kém, dễ tổng hợp và dễ phù hợp với các hệ thống lọc sẵn có.

N.P.D-NASATI (Theo Newatlas)