Những nhân chứng phương Tây về chủ quyền Hoàng Sa
Gần như các nhà buôn, nhà tu, nhà thám hiểm phương Tây giai đoạn từ thế kỷ 16 đến 19 đều xác định chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là "của Hoàng đế An Nam" và "không ai tranh chấp".
Thế kỷ 15, các nhà truyền giáo, nhà buôn đã đặt chân đến "phương Đông huyền bí". Tại Việt Nam, các thương điếm, thương cảng cho nhà buôn châu Âu đã mọc lên ở Đàng trong và Đàng ngoài. Những ghi chép của phương Tây thời kỳ đó về các nước châu Á góp phần soi rọi lại sự thật lịch sử: Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam.
Hoàng Sa - Trường Sa trong cuộc tìm kiếm thuộc địa
Năm 1494, Giáo hoàng Alexandre VI đã phân chia cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha các vùng ảnh hưởng trên thế giới và được chính thức hóa bằng hiệp ước Tordesillas.
Các thương thuyền của Bồ Đào Nha đã đi về phương Đông thiết lập cơ sở cho cuộc chinh phục lâu dài. Năm 1511, Bồ Đào Nha thiết lập thương điếm ở Ma Cao, tới năm 1557 biến nơi đây thành thuộc địa. Từ đây các thương thuyền qua lại biển Đông. Các nhà hàng hải Bồ Đào Nha đã có những chuyến thám hiểm biển Đông.
Nhà hàng hải Bồ Đào Nha Fernao Mendes Pinto cũng là một giáo sĩ Dòng Tên đã ghi chép lại chuyến du hành năm 1545 qua cuốn sách du ký mang tên Peragrinacao, được xuất bản tại Lisbon năm 1614.
Trong cuốn sách Pinto đã mô tả về quần đảo Hoàng Sa khá chi tiết, ông gọi đó là Pulo Pracelar. Theo tiếng Bồ Đào Nha, Pracelar nghĩa là san hô, Pulo có nghĩa là cù lao.
Trên con đường các nhà truyền giáo theo các thương thuyền đi truyền đạo ở Đàng ngoài của Việt Nam, họ đã gặp trở ngại vì các bãi đá ngầm ở biển Đông. Bồ Đào Nha đã thúc đẩy nhiều cuộc khảo sát khác vào nửa sau thế kỷ 16 và đã xác định được một dãy cao tầng bãi đá ngầm rất nguy hiểm. Tọa độ của nó chính là Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay.
Bước sang thế kỷ thứ 17, người Bồ Đào Nha đã mất thế độc quyền ở biển Đông. Một số quốc gia phương Tây khác đã bứt phá lên, bắt đầu xuất hiện, tăng cường sự có mặt trên biển Đông. Địch thủ lớn nhất của Bồ Đào Nha là Hà Lan, sau đó là Anh và Pháp. Các hoạt động hàng hải của Hà Lan, Anh và Pháp chủ yếu dựa vào những công ty thương mại quốc tế, được nhà nước ủy quyền và bảo trợ.
Người Pháp qua các hoạt động của các giáo sĩ, thương gia đã quan tâm và hiểu biết nhiều về Việt Nam. Giám mục Pigneau de Béhaine, đã nắm rõ tình hình chính trị của Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài từ khi phân tranh đến lúc thống nhất.
Trong nhật ký của chiếc tàu Amphitrite chở các giáo sĩ Pháp đi qua quần đảo Paracels (tức Hoàng Sa) năm 1701 có ghi lại như sau: "Người ta cho tàu nhổ neo, gió rất tốt. Và sau đó một thời gian đi đến mỏm đá Paracels. Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam. Đó là một bãi đá ngầm khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, rất nhiều lần đã xảy ra các nạn đắm tàu ở đó".
Những nhân chứng phương Tây
Nhân vật Jean Baptiste Chaigneau (1769 - 1825), được vua Gia Long đặt tên Việt là Nguyễn Văn Thắng và phong là Thắng Toàn Hầu. Cuốn hồi ký của ông mang tên "Le mémoire sur la Cochinchine" có đoạn viết: "Nước Cochinchine (tức An Nam) mà nhà vua bây giờ xưng đế hiệu Hoàng đế gồm xứ Đàng Trong, xứ Đông Kinh, một phần xứ Cao Miên, một vài đảo có dân cư không xa bờ bể và quần đảo Paracels hợp thành bởi những đảo nhỏ, đá ngầm và mỏm đá không dân cư. Chỉ đến năm 1816 đương kim Hoàng đế mới lấy chủ quyền trên quần đảo ấy".
Ghi chép của giám mục Jean Louis Taberd trong cuốn biên khảo "Univers, historire et description de tous les peuples..." xuất bản năm 1833 tại Paris ghi rõ: "Chúng tôi không đi vào việc kê khai những hòn đảo chính yếu của xứ An Nam. Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng, từ hơn 34 năm nay quần đảo Paracels mà người Việt gọi là Cát vàng hay Hoàng Sa, cũng có nghĩa là cát vàng, gồm rất nhiều hòn đảo chằng chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô lên giữa những bãi cát làm cho những kẻ đi biển rất e ngại đã được chiếm cứ bởi người Việt xứ Đàng Trong".
Ở một đoạn khác, vị giám mục này khẳng định: "Hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816".
Trong cuốn tự điển Việt - Latinh nhan đề "Latino - Anamiticum" của giám mục Taberd xuất bản năm 1838 có in bản đồ trên loại giấy chuyên dùng in họa đồ khổ 80 x 44 (cm). Nhan đề bản đồ là "An Nam đại quốc họa đồ" in bằng 3 thứ tiếng Latinh, Quốc ngữ và chữ Hán.
Có thể nói "An Nam đại quốc họa đồ" là một tài liệu phản ánh sự tổng kết về hiểu biết, khám phá sâu sắc và chính xác của người phương Tây từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19 về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của nước Việt Nam. Trong quyển từ điển và bản đồ đã ghi chép về những khảo sát, nghiên cứu tường tận của nhiều thế hệ nghiên cứu phương Tây về Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo "An Nam đại quốc họa đồ", tại biển Đông không hề có đảo Hải Nam của Trung Quốc mà chỉ có những đảo của Việt Nam. Paracels chính là địa danh người phương Tây chỉ quần đảo Hoàng Sa trên biển Đông suốt từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Trong bản đồ này ghi chú "Paracels Seu Cát Vàng".
Những ấn phẩm khảo sát, nghiên cứu của phương Tây về Hoàng Sa và Trường Sa không chỉ bằng tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha mà còn cả tiếng Anh khá phong phú. Tờ The Journal of Asiatic Society of Bengal của người Anh ở Bengal số 6 và 7 trong chuyên đề về Hoàng Sa có đoạn: "Pracel hoặc Paracels, tuy rằng tại các quần đảo này không có gì ngoài đá tảng và những cồn lớn, nó hứa hẹn nhiều bất tiện hơn là lợi. Vua Gia Long đã nghĩ tăng lãnh thổ bằng cách chiếm thêm cái đất buồn bã này. Năm 1826 ông đã long trọng cắm cờ và chính thức giữ chủ quyền các hòn đảo đầy đá này mà không một ai tranh giành với ông"...
Gần như các nhà buôn, nhà tu, nhà thám hiểm phương Tây giai đoạn từ thế kỷ 16 đến 19 đều xác định chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là "của Hoàng đế An Nam" và "không ai tranh chấp".
Thực ra, kể cả các tài liệu của người Bồ Đào Nhà trước kia dù chưa khẳng định mạnh mẽ chủ quyền của vua Việt Nam tại quần đảo "đầy cát và đá" song cũng ghi nhận bóng dáng thuyền và người An Nam có mặt ở trên khai thác từ rất sớm...
(Còn nữa)
Theo Duy Chiến
Vietnamnet
* Bài có sử dụng tư liệu nghiên cứu của tiến sĩ Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, người sáng lập và cố vấn Quỹ Văn hóa Giáo dục tại TP.HCM.