Đến năm 2020 sẽ có khoảng 70.000 cử nhân sư phạm thất nghiệp

(Dân trí) - Dự kiến đến thời điểm năm 2020 hệ thống giáo dục không thể tuyển dụng hết số giáo viên mới tốt nghiệp ra trường, vẫn thừa khoảng 41.000 người đối với tiểu học, 12.200 người đối với THCS và 16.900 đối với THPT.

Đó là con số mà PGS.TS. Bùi Văn Quân, hiệu trưởng Trường ĐH Thủ đô Hà Nội đưa ra tại Hội thảo khoa học “Đào tạo giáo viên tại các trường ĐH đa ngành đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay” tại Hà Nội ngày 17/5.


Phương pháp giáo dục hiện đại sẽ giúp học sinh phát triển toàn diện

Phương pháp giáo dục hiện đại sẽ giúp học sinh phát triển toàn diện

PGS.TS. Bùi Văn Quân đưa ra thống kê, hiện nay trên cả nước có 108 cơ sở đào tạo giáo viên mầm non và giáo viên phổ thông, bao gồm 9 trường ĐH sư phạm, 1 trường ĐH giáo dục, 31 khoa, ngành sư phạm trong các trường ĐH đa ngành, 35 trường CĐ sư phạm, 19 khoa, ngành sư phạm trong các trường CĐ đa ngành, 3 trường trung cấp sư phạm và 10 trường TCCN.

Chỉ trừ tỉnh Đắk-Nông, các tỉnh, thành phố còn lại hiện nay mỗi tỉnh có ít nhất một cơ sở đào tạo giáo viên. Trong đó, vùng miền núi và trung du phía Bắc có 19 cơ sở, đồng bằng Sông Hồng có 26 cơ sở, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ có 23 cơ sở, Tây Nguyên 8 cơ sở, Đông Nam Bộ có 18 cơ sở, đồng bằng Sông Cửu Long có 14 cơ sở.

PGS.TS Quân nhận định, cơ cấu mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo viên, nhất là cơ cấu theo địa bàn lãnh thổ (mỗi tỉnh/ thành phố có ít nhất 1 cơ sở đào tạo giáo viên) và phương thức đào tạo giáo viên truyền thống (đào tạo song song) đã hoàn thành vai trò, sứ mệnh lịch sử của nó.

Tuy nhiên, hệ thống đào tạo giáo viên bộc lộ những hạn chế cơ bản như việc phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu phát triển giáo viên. Mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên phát triển trong tình trạng thiếu ổn định do nhiều trường CĐ sư phạm yếu cả về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên được nâng cấp lên ĐH, hoặc đổi tên để mở rộng tuyển sinh đào tạo trình độ ĐH các ngành sư phạm và ngoài sư phạm. Chưa có sự phân tầng trong mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên…

Ông Quân cho biết, đến năm 2018 số sinh viên sư phạm ra trường mỗi năm (theo loại hình giáo viên): Tiểu học là 19.200 người, THCS 18.700 người và THPT 23.030 người. Cho dù tăng số học sinh/ giáo viên bình quân lên tương đương các nước công nghiệp phát triển, thì tại thời điểm năm 2020 hệ thống cũng không thể tuyển dụng hết số giáo viên mới tốt nghiệp ra trường, vẫn thừa khoảng 41.000 người đối với tiểu học, 12.200 người đối với THCS và 16.900 đối với THPT.

“Giáo viên là người lao động nghề nghiệp chuyên nghiệp”

PGS.TS Quân đưa ra quan điểm cần xây dựng mạng lưới cơ sở đào tạo và tổ chức mô hình/phương thức đào tạo giáo viên phải xuất phát từ quan điểm “giáo viên là người lao động nghề nghiệp chuyên nghiệp”.

Ông Quân phân tích, với quan điểm trên khẳng định tính chuyên nghiệp trong lao động nghề nghiệp của giáo viên nên đặt ra những tiêu chuẩn xác định cho đào tạo giáo viên và đòi hỏi, người làm công tác đào tạo ở các cơ sở đào tạo giáo viên phải là những người chuyên nghiệp trong đào tạo giáo viên. Trong thời gian tới, cần có những nghiên cứu đánh giá các mô hình/phương thức đào tạo giáo viên hiện nay.

Ông Quân cho rằng, các nhà quản lý cần thiết kế cơ cấu mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên phải tính đến cả tình huống của “khủng hoảng thiếu giáo viên” và đảm bảo đáp ứng nhu cầu cơ cấu giáo viên về trình độ đào tạo; Thiết kế cơ cấu mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên phải chú ý đến tính đa dạng về mô hình/phương thức đào tạo. Bên cạnh đó, mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên phải được phân tầng.

“Phải xác định lại chức năng của trường thực hành sư phạm, đặc biệt là trường thực hành sư phạm thuộc cơ sở đào tạo giáo viên (trường thực hành sư phạm thuộc cơ sở đào tạo giáo viên không thuần túy chỉ là cơ sở thực hành nghề). Quy trình đào tạo giáo viên phải được thiết kế, tổ chức gắn chặt với thực tiễn đời sống học đường, đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa đào tạo và bồi dưỡng theo quan điểm phát triển liên tục nghề nghiệp giáo viên (phát triển liên tục nghề nghiệp giáo viên là một quá trình bao gồm cả 3 giai đoạn: trước đào tạo nghề giáo viên, đào tạo nghề giáo viên và lao động nghề nghiệp tại cơ sở giáo dục mầm non hoặc phổ thông) - ông Quân kiến nghị.

Còn theo PGS. TS. Nguyễn Mạnh An Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa, cần thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên phù hợp với chức danh và nhiệm vụ được phân công; Ưu tiên đặc biệt đối với những ngành đào tạo chưa có GV trình độ tiến sỹ... Đồng thời, cần có cơ chế, chính sách để thu hút được đông đảo các học sinh giỏi vào học các ngành sư phạm tại các trường ĐH địa phương: Thực tế, đầu vào của thí sinh trúng tuyển vào học tập tại các trường ĐH địa phương tương đối thấp về mặt chất lượng làm ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra, trong đó có đội ngũ giáo viên.

GS.TSKH. Dương Ngọc Hải, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHCNVN, GĐ Học viện Khoa học cho rằng, hiện nay, nhận thức tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học trong đào tạo giảng viên chưa đầy đủ. Nguyên nhân một phần là do kinh phí nghiên cứu còn ít và thiếu giảng viên làm nghiên cứu khoa học. Nếu là trường ĐH nghiên cứu thì cả 2 vấn đề này có thể được giải quyết. Chiến lược phát triển ngành Sư phạm trong mạng lưới các trường ĐH cần phải nâng cao để phù hợp với xu hướng chung trên Thế giới của ĐH nghiên cứu: Nghiên cứu gắn với Giảng dạy-Đào tạo.

Theo PGS.TS Quân, hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên trong tương lai nên thiết kế như thế nào, vận hội của các trường cao đẳng sư phạm sẽ ra sao, mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo giáo viên và các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông được thiết lập và vận hành như thế nào, những điều kiện đảm bảo của nó là gì... là những câu hỏi không dễ có lời giải thấu đáo. Nó cần đến thời gian với sự đầu tư trí tuệ của các nhà sư phạm trong một chương trình nghiên cứu khoa học có tổ chức với định hướng rất cụ thể.

Hồng Hạnh

(Email: vuhonghanh@dantri.com.vn)