Công dân mòn mỏi ngóng chờ hồi âm của Công an TP. Hà Nội

(Dân trí) - Không chỉ thất thu khoản tiền cho thuê xe 13 triệu/tháng, vợ chồng ông Nguyễn Chí Thanh còn phải ôm “cục nợ” hơn 200 triệu và đứng trước nguy cơ mất trắng chiếc xe ôtô chỉ vì tin vào lời hứa của Chủ tịch HĐTQ Công ty đầu tư và XNK Quang Tùng.

Trong đơn khiếu nại gửi đến báo Dân trí, ông Nguyễn Chí Thanh và vợ là Bùi Thị Xuân trú tại số 4, tổ 48, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội phản ánh: Cơ quan CSĐT - CATP. Hà Nội chậm xem xét, giải quyết đơn thư tố cáo những dấu hiệuchiếm đoạt tài sản của bà Nguyễn Thuý Vân - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần đầu tư và xuất nhập khẩu Quang Tùng (gọi tắt là Công ty Quang Tùng).
 
Đơn khiếu nại của ông Nguyễn Chí Thanh và bà Bùi Thị Xuân
Đơn khiếu nại của ông Nguyễn Chí Thanh và bà Bùi Thị Xuân

Nội dung đơn khiếu nại của ông Thanh và vợ cho biết, ngày 28/2/2011, bà Bùi Thị Xuân (vợ ông Thanh), ký hợp đồng thuê xe ô tô với bà Nguyễn Thuý Vân - Chủ tịch HĐQT là người đại diện theo pháp luật của Công ty Quang Tùng. Theo hợp đồng, Công ty Quang Tùng thuê xe ô tô BKS: 29A-105.00 của vợ chồng ông Thanh, bà Xuân với thời gian thuê 12 tháng, giá cho thuê 13 triệu đồng/tháng.

Tuy nhiên, sau khi ký hợp đồng Công ty Quang Tùng liên tục vi phạm hợp đồng, buộc vợ chồng ông Thanh, bà Xuân phải yêu cầu bà Vân mang xe trả lại và không cho Công ty Quang Tùng thuê nữa. Tuy nhiên, bà Vân đưa ra nhiều lý do không trả chiếc xe ô tô này cho vợ chồng ông Thanh. Bà Vân nói với vợ chồng ông Thanh “xe đang ở bãi vàng bị tai nạn xe hỏng, và muốn mua lại”.

Hợp đồng ủy quyền vợ chồng ông Thanh ký với bà Vân ngày 29/9/2011
Hợp đồng ủy quyền vợ chồng ông Thanh ký với bà Vân ngày 29/9/2011
 
Theo sự chỉ dẫn của bà Vân, ngày 29/9/2011, vợ chồng ông Thanh đến Văn phòng công chứng Hà Nội lập Hợp đồng uỷ quyền, uỷ quyền cho bà Vân thay mặt cho vợ chồng ông Thanh thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc, lẫn lãi cho khoản vay theo Hợp đồng thế chấp, tài sản bảo đảm là chính chiếc xe ô tô BKS: 29A-105.00 mà vợ chồng ông Thanh đang thế chấp, bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam - Chi nhánh Nam Thăng Long. Tuy nhiên, sau khi lập xong Hợp đồng uỷ quyền, bà Vân không thực hiện nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết.
 
Bức xúc trước hành vi chiếm đoạt tài sản của bà Vân, vợ chồng ông Nguyễn Chí Thanh gửi đơn tố cáo đến ông Nguyễn Đức Chung - Giám đốc CATP. Hà Nội, tố cáo bà Nguyễn Thuý Vân đã có hành vi chiếm đoạt tài sản. Ngày 4/8/2012 Cơ quan CSĐT - CATP. Hà Nội thụ lý giải quyết đơn thư tố cáo, giao cho Điều tra viên Phạm Thành Công trực tiếp giải quyết vụ việc.
 
Bà Bùi Thị Xuân đề nghị Cơ quan CSĐT - CATP. Hà Nội sớm ra quyết định khởi tố vụ án hình sự
Bà Bùi Thị Xuân đề nghị Cơ quan CSĐT - CATP. Hà Nội sớm ra quyết định khởi tố vụ án hình sự

Đã gần 9 tháng trôi qua nhưng đến nay Cơ quan CSĐT - CATP. Hà Nội vẫn chưa có quyết định khởi tố, hoặc thông báo việc không khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi chiếm đoạt tài sản nêu trên, mặc dù Cơ quan CSĐT - CATP. Hà Nội đã nhiều lần triệu tập bà Vân lên làm việc, bà Vân nhiều lần thất hứa không giao nộp ôtô cho Cơ quan CSĐT.

Trong đơn khiếu nại, ông Thanh và bà Xuân đề nghị Cơ quan CSĐT - CATP. Hà Nội sớm ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với bà Nguyễn Thuý Vân về hành vi chiếm đoạt tài sản, yêu cầu thay đổi Điều tra viên vì đã không vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết đơn tố cáo, gây thiệt hại kinh tế cho ông Thanh, bà Xuân.
 
Đề nghị khởi tố vụ án
 
Để làm rõ hơn vụ việc trên dưới góc nhìn pháp lý, PV Dân trí đã có buổi trao đổi với Luật sư Tạ Anh Tuấn - Trưởng Văn phòng luật sư Bách Gia Luật và Liên danh - Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.

Thưa Luật sư sự chậm trễ trong việc giải quyết đơn tố cáo của Cơ quan CSĐT - CA TP. Hà Nội có vi phạm Bộ Luật Tố tụng hình sự?

Theo Điều 86 Bộ Luật Tố tụng hình sự quy định về nhiệm vụ giải quyết tố giác và tin báo tội phạm nêu rõ: “Trong thời hạn không quá hai mươi ngày kể từ khi nhận được tố giác hoặc tin báo, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự; trường hợp sự việc bị tố giác hoặc tin báo có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng”.

Như vậy theo quy định nêu trên, cơ quan CSĐT - CATP. Hà Nội chưa thực hiện đúng quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự về giải quyết đơn tố cáo của vợ chồng ông Nguyễn Chí Thanh, cụ thể: Theo quy định đối với vụ việc đơn giản, trong thời hạn không quá 20 ngày và không quá hai tháng đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp, Cơ quan CSĐT - CATP. Hà Nội phải có trách nhiệm trả lời cho người tố giác biết về việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.

Theo quan điểm của Luật sư, hành vi của bà Nguyễn Thuý Vân thoả mãn dấu hiệu phạm tội gì trong Bộ Luật hình sự?

Để xác định một người có hành vi phạm tội phải căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ Luật hình sự.

Theo quan điểm của tôi hành vi chiếm đoạt xe ô tô BKS: 29A- 105.00 của bà Nguyễn Thuý Vân thoả mãn dấu hiệu tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự có mức hình phạt tù cao nhất từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
 
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Ban Bạn đọc