Thu nhập của người nghèo tăng hơn 2 lần trong 5 năm qua
(Dân trí) - Trên 2,2 triệu hộ nghèo hưởng lợi từ hơn 13.000 dự án phát triển sản xuất, mô hình giảm nghèo, 5.500 lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo và đồng bào dân tộc được hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài...
Năm 2021 được đánh giá là thời điểm có tính "bản lề" trong thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo giai đoạn 2021-2025. Trên cơ sở những kết quả có được trong giai đoạn trước, công tác giảm nghèo thời gian tới hy vọng sẽ có thêm nhiều tín hiệu khả quan.
Tỷ lệ hộ nghèo còn 2,75%
Theo Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Lê Văn Thanh, thời gian qua, Đảng và Nhà nước luôn xác định công tác giảm nghèo bền vững là chủ trương lớn, quan trọng và xuyên suốt trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.
Bên cạnh đó, hệ thống chính sách pháp luật về giảm nghèo được ban hành khá đồng bộ và toàn diện. Ngân sách nhà nước và nguồn lực huy động từ xã hội đầu tư cho công tác giảm nghèo ngày càng tăng.
Trong công tác giảm nghèo giai đoạn 2015-2020, hàng chục triệu hộ nghèo đã thoát nghèo, nhiều hộ có cuộc sống trung bình, khá giả, nhiều địa bàn nghèo thoát khỏi tình trạng khó khăn, một số địa bàn đạt chuẩn nông thôn mới.
Thống kê của Bộ LĐ-TB&XH cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo là 9,88% năm 2015 (năm đầu kỳ) giảm xuống còn 2,75% năm 2020 (năm cuối kỳ), trong 5 năm giảm bình quân 1,43%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,4%/năm.
Thu nhập của người nghèo tăng hơn 2 lần trong 5 năm vừa qua. Hơn 13 nghìn dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo hiệu quả với trên 2,2 triệu hộ hưởng lợi. 5.500 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số được hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài.
Tổng nguồn vốn hỗ trợ 120 nghìn tỷ đồng
Tổng nguồn lực đã được bố trí, huy động để thực hiện Chương trình khoảng 120 nghìn tỷ đồng; trong đó gồm nguồn vốn trung ương (chiếm khoảng 35%), vốn huy động xã hội hóa hỗ trợ an sinh xã hội và giảm nghèo của các địa phương (chiếm khoảng 41%), vốn ủng hộ Quỹ "Vì người nghèo" và các hoạt động an sinh xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp (chiếm khoảng 24%).
Ngoài những con số "biết nói", điều có được qua công tác triển khai chính sách giảm nghèo còn là nhận thức, ý chí vươn lên của người nghèo trong cả nước tăng cao, nhiều tấm gương điển hình nỗ lực vươn lên thoát nghèo.
Thứ trưởng Lê Văn Thanh đánh giá, nhận thức của người nghèo dần thay đổi, cơ bản không còn ỷ lại, có nhiều tấm gương, điển hình thoát nghèo, tình nguyện xin ra khỏi danh sách hộ nghèo.
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã 8 lần ban hành chuẩn nghèo quốc gia theo mô hình tháp giảm nghèo, đáp ứng nhu cầu người nghèo từ thấp lên cao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước từng thời kỳ.
Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là một trong những quốc gia đầu tiên của Châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu gắn với mục tiêu phát triển bền vững.
Được biết, Quốc hội và Chính phủ rất quan tâm, bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước và huy động nguồn lực toàn xã hội để thực hiện Chương trình giảm nghèo. Phong trào thi đua: "Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau" do Thủ tướng Chính phủ phát động được triển khai sâu rộng.
Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức thực hiện phong trào thi đua, khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường vươn lên thoát nghèo và huy động nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Phát hiện và nhân rộng các điển hình, mô hình giảm nghèo hiệu quả, sáng kiến giảm nghèo, giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo.
"Thành quả trên được nhân dân cả nước ghi nhận, cộng đồng quốc tế đánh giá đây là một trong những thành công nổi bật nhất, ý nghĩa nhân văn nhất của Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế" , Thứ trưởng Lê Văn Thanh nhấn mạnh.
Cần nguồn lực lớn
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Thứ trưởng Lê Văn Thanh cũng lưu ý, công tác giảm nghèo giai đoạn 2021-2025 cần tập trung nhằm giải quyết nhiều thách thức, tồn tại.
Trước hết là tình trạng nhiều huyện nghèo, xã vùng bãi ngang ven biển và hải đảo chưa thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Các địa phương này là vùng "lõi nghèo", có địa hình hiểm trở, kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng còn khó khăn, có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Phần lớn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo sinh sống ở vùng nông thôn, có sinh kế, thu nhập không bền vững. Người dân còn thiếu kỹ năng nghề nghiệp, chất lượng nguồn nhân lực thấp, khó tiếp cận và cạnh tranh trên thị trường lao động, việc làm.
Mục tiêu tới năm 2030
Thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Việt Nam đã cam kết với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, trong đó có các mục tiêu là "Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người; đảm bảo giáo dục chất lượng, rộng mở và công bằng; giảm bất bình đẳng trong xã hội".
Hiệu quả kết nối giữa sản xuất với thị trường tiêu thụ sản phẩm, phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, giải quyết vấn đề thiếu đất sản xuất, nhà ở, giảm nghèo về thông tin, cải thiện dinh dưỡng cho người nghèo còn hạn chế.
Trong khi đó, nguồn lực đầu tư cho công tác giảm nghèo còn dàn trải, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Nhiều công trình phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội ở địa bàn nghèo có quy mô nhỏ nên hiệu quả sử dụng, tác động đến đời sống dân sinh, phục vụ sản xuất còn hạn chế.
Đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, xu thế đô thị hóa, xu hướng già hóa dân số, chênh lệch về thu nhập và mức sống, tình trạng di cư lao động đặt ra những thách thức rất lớn đối với người nghèo trong việc tiếp cận các cơ hội học tập, đào tạo kỹ năng nghề, tìm kiếm việc làm, sinh kế bền vững, nâng cao thu nhập.
Theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2022-2025, ước tính tại thời điểm tháng 01/2022, cả nước có khoảng 16,6% hộ dân cư có thu nhập dưới mức sống tối thiểu, tương ứng với khoảng 4,473 triệu hộ. Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo là 10,83%, tỷ lệ hộ cận nghèo là 5,77%.
Do vậy, để thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo, đòi hỏi phải có nguồn lực lớn để tập trung giải quyết.
Định hướng giảm nghèo bền vững thời gian tới
Theo Thứ trưởng Lê Văn Thanh, công tác giảm nghèo thời gian tới vẫn cần thực hiện quan điểm xuyên suốt: "Không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để đổi lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần".
Trong đó, việc xác định đầu tư cho công tác giảm nghèo là đầu tư cho phát triển nhằm hỗ trợ người nghèo thoát nghèo, xây dựng cuộc sống khá giả. Những địa bàn nghèo thoát khỏi tình trạng khó khăn, xây dựng tiêu chí nông thôn mới.
Đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bao trùm, nhất là nâng cao thu nhập và bảo đảm các chiều dịch vụ xã hội cơ bản (về việc làm, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch sinh hoạt và vệ sinh, thông tin) để tiến tới xóa bỏ nghèo đói cho mọi người, ở mọi nơi, mọi thời điểm và mọi chiều.
Sớm hoàn thành cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo đến năm 2030.
Về nhiệm vụ trọng tâm, Thứ trưởng nhấn mạnh công tác giảm nghèo cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức trong công tác giảm nghèo, phát huy mạnh mẽ truyền thống đoàn kết, tinh thần "tương thân, tương ái" của dân tộc Việt Nam đối với người nghèo.
Qua đó động viên, hướng dẫn người nghèo, hộ nghèo có kiến thức, kinh nghiệm trong lao động, sản xuất, chủ động vươn lên thoát nghèo, không trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội. Tích cực tuyên truyền về công tác giảm nghèo, kịp thời giới thiệu các cá nhân, tập thể, mô hình, kinh nghiệm hay trong giảm nghèo bền vững.
Đối với địa bàn nghèo: Chương trình tập trung hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng kết nối vùng, thiết yếu, phục vụ dân sinh, sản xuất trên địa bàn các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, góp phần cải thiện điều kiện sống, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách giảm nghèo, chuẩn nghèo đa chiều gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người. Đổi mới cách tiếp cận về giảm nghèo, ban hành chính sách hỗ trợ có điều kiện, tăng cường tín dụng chính sách xã hội cho người nghèo, bảo trợ xã hội đối với hộ nghèo không có khả năng lao động.