Làm thêm giờ phải trên cơ sở thỏa thuận bình đẳng, được trả công tương xứng
(Dân trí) - Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, nguyên tắc của pháp luật lao động đã được quy định khi làm thêm giờ phải trên cơ sở thỏa thuận bình đẳng, công khai, không áp đặt và được trả công tương xứng.
Chiều 23/3, tiếp tục chương trình làm việc phiên thứ 9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo Nghị quyết về số giờ làm thêm trong tháng và trong năm của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Trước đó vào ngày 10/3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến, xem xét vấn đề này.
Tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về số giờ làm thêm trong tháng và trong năm của người lao động, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất giữ nguyên như dự thảo là thời gian làm thêm giờ trong tháng không quá 72 giờ.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giải trình lý do đề xuất giữ nguyên thời gian làm thêm giờ như vậy vì nghị quyết chỉ quy định về trần tối đa các bên có thể thỏa thuận để làm thêm giờ chứ không phải đó là thời gian làm thêm giờ người lao động phải thực hiện.
Ngoài ra, theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, nguyên tắc của pháp luật lao động đã được quy định khi làm thêm giờ phải trên cơ sở thỏa thuận bình đẳng, công khai, không áp đặt; đảm bảo sức khỏe và điều kiện lao động lâu dài cho người lao động; được trả công tương xứng.
"Trên thực tế, căn cứ vào yêu cầu công việc, sức khỏe, điều kiện của người lao động, người lao động và người sử dụng lao động có thể thỏa thuận làm thêm ở mức 40 giờ, 45 giờ, 50 giờ hay 60 giờ và tối đa là được 72 giờ trong 1 tháng", báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho hay.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nêu thực tế nhiều ngành, hiệp hội doanh nghiệp đề nghị nâng giới hạn làm thêm trong tháng, thậm chí đề nghị bỏ giới hạn làm thêm trong tháng, do đã có giới hạn làm thêm trong ngày và trong năm.
Còn theo quy định hiện hành tại Điều 107 Bộ luật Lao động, doanh nghiệp được phép sử dụng người lao động trên cơ sở thỏa thuận để làm thêm giờ không quá 4 giờ/ngày. Trong trường hợp bỏ quy định giới hạn làm thêm giờ trong tháng thì theo quy định giờ làm thêm trong ngày, mỗi tháng người lao động cũng chỉ làm thêm tối đa được 104 giờ với 26 ngày công.
"Như vậy, mức 72 giờ/tháng được đề xuất tại dự thảo Nghị quyết là ở mức trung bình của đề xuất của người sử dụng lao động (104 giờ/tháng) và quy định pháp luật hiện hành (40 giờ); đồng thời đây cũng là mức trung bình của các nước trong khu vực Châu Á. Mức này cũng chỉ được đề xuất áp dụng thời gian ngắn, trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội", báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho hay.
Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo nghị quyết, Ủy ban Xã hội cho hay, có 2 loại ý kiến về mức trần thời gian làm thêm giờ trong tháng.
Cụ thể, có ý kiến cho rằng việc nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng lên mức không quá 72 giờ là quá cao; đề nghị chỉ nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 60 giờ, tương ứng với việc được áp dụng thời gian làm thêm tối đa trong 1 năm từ 200 giờ lên không quá 300 giờ (150%).
Ý kiến khác đồng tình nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ.
Do còn 2 loại ý kiến khác nhau, theo sự chỉ đạo của lãnh đạo Quốc hội, Thường trực Ủy ban Xã hội đã xin ý kiến thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội về 2 phương án này. Kết quả: 13/18 thành viên tán thành phương án 1; 5/18 thành viên tán thành phương án 2.
Trên cơ sở kết quả biểu quyết, Thường trực Ủy ban Xã hội đã tiếp thu ý kiến của đa số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội và thể hiện dự thảo: "Trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 01 tháng".
Theo Ủy ban Xã hội của Quốc hội, nhiều ý kiến đồng tình với việc mở rộng đối tượng áp dụng thời giờ làm thêm trong năm không quá 300 giờ và đề nghị loại trừ những đối tượng lao động đặc biệt như người lao động chưa thành niên từ 15-18 tuổi, người khuyết tật, phụ nữ đang mang thai, nuôi con nhỏ, người làm nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Tiếp thu ý kiến trên, Ủy ban Xã hội và cơ quan chủ trì soạn thảo thống nhất chỉnh lý dự thảo theo hướng bổ sung các trường hợp không làm thêm giờ với người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi; người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm…