Hành trình đưa BHXH, BHYT trở thành quỹ an sinh lớn nhất của Việt Nam
(Dân trí) - Trên chặng đường 28 năm xây dựng và phát triển, ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đã dần hoàn thiện, đưa BHXH, BHYT trở thành quỹ an sinh lớn nhất hiện nay, quy mô trên 1 triệu tỷ đồng.
Cách đây 28 năm (16/2/1995), Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã được thành lập. Điều này tạo nên "bước ngoặt" quan trọng trong công tác tổ chức, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở nước ta.
Nhân kỷ niệm ngày thành lập ngành, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Thế Mạnh đã có cuộc trao đổi, chia sẻ về chặng đường 28 năm tổ chức, thực hiện chính sách BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) với nhiều trọng trách nhưng cũng không ít vinh dự, tự hào của ngành.
- Xin ông cho biết ý nghĩa của việc thành lập ngành BHXH Việt Nam trong công tác tổ chức, thực hiện chính sách BHXH, BHYT cho nhân dân ở nước ta?
- Sự ra đời của ngành BHXH Việt Nam là một xu thế tất yếu. Từ năm 1994, Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua đã có quy định về việc hình thành quỹ BHXH tập trung, độc lập với ngân sách, tự hạch toán bằng sự đóng góp của chủ sử dụng lao động (SDLĐ) và người lao động (NLĐ), được Nhà nước bảo hộ.
Theo đó, ngày 26/01/1995, Chính phủ đã có Nghị định số 12/CP ban hành Điều lệ BHXH quy định thực hiện BHXH bắt buộc đối với cán bộ, viên chức nhà nước và NLĐ làm việc tại các doanh nghiệp (DN), đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự phát triển chính sách BHXH với việc triển khai thống nhất BHXH bắt buộc cho NLĐ trong mọi thành phần kinh tế thay vì chỉ "gói gọn" trong khối cơ quan nhà nước như trước đây.
Tiếp theo, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/2/1995 thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động - Thương binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Có thể nói, sự ra đời của BHXH Việt Nam là dấu mốc cải cách quan trọng nhằm thu gọn đầu mối tổ chức thực, hiện chính sách BHXH theo hướng tập trung, thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam gồm 3 cấp: Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện.
Đến ngày 24/1/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg về việc chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam và ngày 6/12/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 100/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam.
Theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý quỹ BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật.
Đặc biệt, địa vị pháp lý của BHXH Việt Nam tiếp tục được khẳng định tại Luật BHXH 2014 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2016), trong đó quy định: Cơ quan BHXH là cơ quan nhà nước có chức năng thực hiện chế độ, chính sách BHXH, quản lý và sử dụng các quỹ BHXH, BHYT, BHTN...
Đây là những văn bản quan trọng cho việc thống nhất tổ chức, thực hiện chính sách BHXH, BHYT ở nước ta và cũng là tiền đề cho sự phát triển của ngành BHXH Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tổ chức, thực hiện hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế.
- Hành trình 28 năm từ khi hình thành đến nay, ngành đã làm gì để từng bước khẳng định chính sách BHXH, BHYT là hai chính sách có vai trò trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, thưa ông?
- Phát triển BHXH, BHYT theo hướng bao phủ toàn dân là mục tiêu quan trọng, xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Với ý nghĩa đó cùng sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, công tác tổ chức, thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN của ngành BHXH Việt Nam trong 28 năm qua đã góp phần đưa các chính sách này ngày càng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả tích cực.
Cụ thể, toàn ngành đã chủ động, tích cực tham gia xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN; thường xuyên chủ động tổng hợp vướng mắc trong tổ chức, thực hiện các chính sách... qua đó góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT phù hợp với thực tiễn, tạo thuận lợi cho người lao động và người dân tham gia, thụ hưởng đầy đủ các chế độ, chính sách.
Chính sách BHYT đã bảo đảm cho người dân được tiếp cận các dịch vụ y tế và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, giảm bớt gánh nặng tài chính khi sử dụng các dịch vụ y tế và làm giảm nguy cơ đói nghèo, đặc biệt đối với người nghèo, cận nghèo, người dân sống ở vùng sâu vùng xa, vùng miền núi.
Thứ hai, công tác truyền thông chính sách, pháp luật được coi trọng, đổi mới cả về nội dung, hình thức theo hướng hiện đại, đa dạng, linh hoạt, phù hợp với từng nhóm chủ thể, đặc điểm từng vùng miền, phong tục tập quán, trong đó tập trung vào nhóm tham gia BHXH tự nguyện, BHYT theo hộ gia đình.
Thứ ba, công tác phát triển người tham gia là nhiệm vụ chính trị quan trọng của Ngành, góp phần mở rộng độ bao phủ, tiến tới mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân mà các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đề ra.
Diện bao phủ BHXH, BHYT, BHTN ngày càng được mở rộng với sự tăng trưởng ấn tượng: Số người tham gia BHXH là 17,5 triệu người (trong đó: Số người tham gia BHXH bắt buộc tăng từ 2,3 triệu người năm 1995 lên hơn 16 triệu người năm 2022; Số người tham gia BHXH tự nguyện từ 6 nghìn người năm 2008 lên gần 1,5 triệu người năm 2022)
Số người tham gia BHTN tăng từ gần 6 triệu người năm 2009 lên hơn 14,3 triệu người năm 2022; Số người tham gia BHYT tăng từ 7,1 triệu người năm 1995 lên hơn 91,1 triệu người năm 2022, đạt tỷ lệ bao phủ 92,04% dân số - cơ bản hoàn thành mục tiêu BHYT toàn dân.
Thứ tư, công tác giải quyết, chi trả chế độ, chính sách BHXH, BHTN, BHYT được ngành BHXH Việt Nam thực hiện kịp thời, đúng quy định; đặc biệt chuyển đổi hiệu quả phương thức quản lý từ thủ công sang hiện đại, việc giải quyết chế độ cho người tham gia căn cứ vào dữ liệu quản lý quá trình tham gia, đảm bảo nguyên tắc "đóng - hưởng".
Từ năm 1995 đến hết năm 2022, BHXH Việt Nam đã giải quyết cho khoảng hơn 136 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; bảo đảm quyền lợi khám chữa bệnh (KCB) BHYT cho trên 2.368 triệu lượt người; giải quyết cho gần 8,7 triệu người hưởng các chế độ BHTN; khoảng 3,3 triệu người đang được hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng.
Đáng chú ý, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến đời sống, lao động, việc làm của người dân và NLĐ, 3 năm qua (từ năm 2020 đến năm 2022), ngành BHXH Việt Nam đã chủ động và quyết liệt tham gia cùng các Bộ, ngành tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ NLĐ và người SDLĐ gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.
Đồng thời tập trung huy động mọi nguồn lực, trên nền nguồn dữ liệu sẵn có để triển khai kịp thời các gói hỗ trợ từ quỹ BHXH, BHTN với tổng số tiền hỗ trợ lên trên 47,2 nghìn tỷ đồng (trong đó, có 99,3% người nhận các khoản hỗ trợ qua tài khoản ngân hàng).
Thứ năm, công tác quản lý tài chính, đầu tư quỹ. Quỹ BHXH, BHYT đã trở thành các quỹ an sinh lớn nhất, được quản lý, sử dụng đúng mục đích, an toàn, hiệu quả, công khai, minh bạch dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng quản lý BHXH.
Quy mô các quỹ bảo hiểm tăng qua từng năm, khẳng định tính bền vững, đảm bảo cân đối trong dài hạn, nhờ đó NLĐ và Nhân dân ngày càng yên tâm, tin tưởng khi tham gia BHXH, BHYT.
Tỷ lệ chi từ nguồn Quỹ BHXH ngày càng tăng; tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước cho BHXH ngày càng giảm, khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng trong việc khuyến khích người dân nâng cao năng lực tự bảo đảm ASXH.
Thứ sáu, công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC), ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và chuyển đổi số (CĐS) của Ngành được đặc biệt quan tâm chỉ đạo triển khai quyết liệt.
Theo đó, các thủ tục hành chính đã được rà soát, cắt giảm tối đa; đơn giản hóa, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, đẩy mạnh giao dịch điện tử, cung cấp các dịch vụ công (DVC) trực tuyến nhằm tạo thuận lợi nhất cho người tham gia.
- Ông đánh giá thế nào về những thay đổi trong công tác cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số BHXH đã thực hiện thời gian qua?
- Để tiếp tục thực hiện thành công các kế hoạch dài hạn và bền vững hướng tới mục tiêu BHXH,BHYT toàn dân, chúng tôi xác định các giải pháp theo định hướng "kiến tạo" phải được toàn Ngành triển khai với tinh thần chủ động, đồng bộ và toàn diện.
Thời gian tới, toàn Ngành sẽ tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu nêu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; Nghị quyết số 125/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW; các Đề án, dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (theo các lộ trình đến năm 2025, 2030); tổ chức thực hiện có hiệu quả các Luật BHXH, Luật BHYT, Luật Việc làm, Luật An toàn - Vệ sinh lao động...
Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội tổ chức, thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN; phát triển ngành BHXH Việt Nam phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã hội.
Toàn ngành cũng sẽ nỗ lực đảm bảo diện bao phủ BHXH, BHYT, BHTN tiếp tục phát triển một cách bền vững; giải quyết, chi trả đầy đủ, kịp thời các quyền lợi về BHXH, BHYT, BHTN cho người tham gia; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.
Đặc biệt, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN; đặc biệt là công tác thanh tra chuyên ngành; kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm chế độ, chính sách về BHXH, BHYT, BHTN; các hành vi gian lận, trục lợi các quỹ BHXH, BHYT, BHTN.
Ngành cũng hướng tới đơn giản hóa các TTHC, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các quy trình nghiệp vụ để thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện nhất cho doanh nghiệp, người dân.