703 tân GS,PGS đã công bố 24.446 bài báo khoa học

(Dân trí) - Theo thống kê lần đầu tiên của Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước về số lượng các công bố quốc tế ISI, Scopus ở 28 HĐCDGSN/LN của 703 tân GS, PGS năm nay cho thấy đã công bố 24.446 bài báo khoa học, trong đó có 278 ứng viên công bố 2.413 bài báo ISI, Scopus.

Cụ thể, trong 28 Hội đồng ngành (HĐN) có 100% ứng viên GS và PGS đều có bài báo ISI, Scopus: Cơ học và Vật lý; Có 10 HĐN, 100% ứng viên GS có bài báo ISI, Scopus: Chăn nuôi-Thú y-Thủy sản; Cơ học; Điện-Điện tử-Tự động hóa; Hóa học-CNTP; KHTĐ-Mỏ; Luyện kim; Nông nghiệp-Lâm nghiệp; Sinh học; Sử học-Khảo cổ học-Dân tộc học và Vật lý.

Có 4 HĐN, 100% ứng viên PGS có bài báo ISI, Scopus: Cơ học; CNTT; Toán học và Vật lý.

Hội đồng ngành có số bài báo ISI, Scopus nhiều nhất là: Vật lý có 537 bài và Hóa học-CNTP là 509 bài. Đặc biệt, có 2 trên 28 HĐN không có công bố quốc tế.

GS.TSKH Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước cho biết, khi thống kê các bài báo quốc tế, chúng ta còn cần phải lưu ý đến đặc thù các ngành và quan tâm đến số tác giả của bài báo và đóng góp của đồng tác giả/ứng viên trong bài báo. Trong các ngành KHXH – NV, sách chuyên khảo được xem trọng hơn bài báo khoa học. Còn trong KHTN-CN thì ngược lại.

Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế thì sách chuyên khảo có giá trị cũng đều được viết ra từ các bài báo khoa học (trong nước và quốc tế) có giá trị. Trong một số ngành, ví dụ Toán học, có thể một GS, PGS không viết thật nhiều bài báo ISI, Scopus, nhưng hầu hết đều chỉ một hai tác giả.

Nhưng có ngành, do đặc thù nghiên cứu nhóm và thực nghiệm, có bài báo có đến 5, 10, 20 hoặc nhiều hơn nữa đồng tác giả. Việc xem xét, đánh giá cụ thể thuộc về các HĐCDGSN/LN. Thực tế những năm qua cho thấy vai trò thẩm định, sàng lọc khoa học của các HĐCDGSN/LN là rất quan trọng và cần thiết.


GS.TSKH Trần Văn Nhung

GS.TSKH Trần Văn Nhung

Chưa có trường đại học nào có tạp chí khoa học riêng

GS.TSKH Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước cho biết, HĐCDGSNN hoan nghênh và ghi nhận sự cố gắng phấn đấu cao của các cơ sở GDĐH trong những năm gần đây để nâng cao chất lượng và hình thức của các tạp chí khoa học, dần tiệm cận chuẩn mực quốc tế, theo yêu cầu gắt gao của HĐCDGSNN. Danh mục các tạp chí khoa học được HĐCDGSNN xem xét, tính điểm, đã được Bộ GD-ĐT sử dụng để yêu cầu NCS đăng bài báo và cũng được Bộ KH-CN tham khảo để xây dựng tiêu chí xét đề tài NCKH.

Nhưng, GS Nhung cho rằng, trong số 356 tạp chí khoa học của cả nước được HĐCDGSNN xem xét, tính điểm hiện nay, mới chỉ có 1 tạp chí ISI và 2 Scopus của Viện HLKH&CNVN và Hội Toán học Việt Nam. Chưa có một trường đại học nào của có tạp chí khoa học riêng của mình (hoặc phối hợp đại học) được kể đến trong ISI hoặc Scopus. Mới chỉ có 6,7% các tạp chí bằng tiếng Anh. Hai tạp chí khoa học của trường ĐH Kinh tế quốc dân và ĐH Kinh tế TPHCM đã được xếp vào Danh mục trích dẫn ASEAN (ACI, Asean Citation Index).

GS Nhung nhận định, chất lượng khoa học của các tạp chí Việt Nam còn thấp so với khu vực và thế giới. HĐCDGSNN sẽ sớm xây dựng VCI (Vietnam Citation Index) để có cơ sở khoa học chính xác đánh giá, xếp loại và tính điểm các bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí Việt Nam.

"Cần phải rất nghiêm túc và quyết liệt trong việc này thì mới hy vọng bước đầu có được một ít tạp chí khoa học của Việt Nam có chất lượng, góp phần phát triển khoa học, giáo dục và kinh tế nước nhà, được khu vực và thế giới tôn trọng, trích dẫn.

Cần củng cố và xuất bản thêm báo, tạp chí khoa học, sách và các tài liệu tuyên truyền đại chúng bằng các thứ tiếng quốc tế, đặc biệt là tiếng Anh, để thông tin và trao đổi với thế giới, nhất là trong các lĩnh vực KHXH-NV, vì nó có vai trò rất quan trọng, nói cho đúng hơn là quyết định công cuộc xây dựng và bảo về Tổ quốc, bảo vệ an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, nhất là khi có những can thiệp thô bạo của nước ngoài, bất chấp luật pháp quốc tế trên biển Đông" - GS Nhung nói.

Hồng Hạnh