Hồi ký xúc động của những người từng ở Hoàng Sa
(Dân trí) - Sở Nội vụ và UBND huyện Hoàng Sa (Đà Nẵng) vừa cho ra mắt cuốn “Kỷ yếu Hoàng Sa” nhằm giới thiệu đến đông đảo người dân một vùng đất thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong cuốn kỷ yếu này, ngoài những tư liệu lịch sử rõ ràng không thể tranh cãi về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa thì những bài hồi ký của nhiều người đã từng công tác ở đây mang đến cho người đọc nhiều xúc cảm.
Bài 1: Những ngày tháng không bao giờ quên
Nhân chứng Nguyễn Văn Cúc hiện đang sinh sống tại quận Sơn Trà (Đà Nẵng) đã từng ba lần ra Hoàng Sa để làm nhiệm vụ khảo sát sửa chữa và xây dựng ở đây ghi lại những tháng ngày không bao giờ quên.
Theo nhật ký của ông Cúc, ông được điều ra Hoàng Sa 3 lần để khảo sát, sửa chữa và xây thêm bể ngầm chứa nước mưa lấy nước ngọt phục vụ cho cả quần đảo. Lần đầu ông ra Hoàng Sa năm 1973, lúc đó ông ra hai ngày để khảo sát tình hình các bể chứa nước cũ, ước lượng nguyên vật liệu để lần sau mang ra đảo. Ở trên đảo, ông thích nhất là đi thăm đảo chim. Đây là cảnh tượng làm ông thích nhất vì trên đảo có vô số chim và vích đẻ trứng.
Ông Nguyễn Văn Thành năm nay đã 68 tuổi, từng là lính truyền tin ở Phòng thông tin thuộc Bộ Chỉ huy Tiểu khu Quảng Nam. Năm 1969 ông nhận được Sự vụ lệnh của đơn vị ra đảo Hoàng Sa làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và quay trở lại đất liền năm 1971. Nhiệm vụ chính của ông là thu thập thông tin, báo cáo về sở chỉ huy ở đất liền những tin tức ở Hoàng Sa mỗi ngày.
Ông viết trong kỷ yếu: “Ký ức chuyến ra đảo đầu tiên làm tôi nhớ mãi. Phải thú thật là lúc nhận được lệnh đi đảo Hoàng Sa, tôi cũng lo sợ. Mặc dù trước đó có rất nhiều người đã đi nhưng lần đầu tiên phải xa vợ con trong thời gian dài và không biết cuộc sống trên đảo thế nào mặc dù đã được bạn bè kể lại qua những ngày tháng họ đã sống ở đó.
Tôi còn nhớ thành phần ra đảo lúc đi khá đông, khoảng hơn 20 người kể cả bốn nhân viên khí tượng. Chúng tôi đến từ những vùng quê khác nhau của Việt Nam. Chúng tôi tập trung tại Hội An, đi mua sắm vật dụng cá nhân cho mình, mua lương thực thực phẩm phục vụ cho đoàn cũng như một số vật nuôi, con giống để ra đảo tăng gia sản xuất như heo, gà, vịt, hạt rau muống, hạt đậu xanh...
Theo kinh nghiệm, nếu thời tiết tốt thì thời gian ra đến đảo mất khoảng 21 tiếng. Tàu của chúng tôi khởi hành khoảng 14 giờ hoặc 15 giờ hôm trước thì hôm sau khoảng 10 giờ hoặc 11 giờ đến. Khi đến gặp lúc nước biển dâng cao thì chuẩn bị xuống tàu vào gần đất liền hơn và ngược lại nếu thủy triều xuống thì tàu phải đậu xa vì ở đáy biển có nhiều tảng đá và rặng san hô. Dù thủy triều cao hay thấp thì trong tàu luôn trang bị xuồng cao su để đưa người và vật dụng lên bờ.
Khi bước chân lên đảo tôi thấy ở cầu cảng có đường ray (hẹp hơn đường ray tàu hỏa) và năm chiếc xe rùa. Tất cả anh em dùng những chiếc xe rùa này để di chuyển vật dụng, thức ăn, nước uống vào nhà. Hai bên đường vào nhà toàn là đá vôi, cây phốt phát, cây nhàu và một số cây lạ khác.
Nhà chúng tôi ở trên đảo được xây dựng rất kiên cố, bề dài khoảng 30-40m, bề ngang khoảng 20m. Nhà được ngăn thành bốn phòng, phía bên phải có một phòng để dùng làm nhà kho, một phòng cho binh sĩ ở, phía bên trái một phòng dành cho đảo trưởng và lính truyền tin, còn căn phòng rộng nhất dùng để sinh hoạt. Nhà rất kiên cố nhưng tất cả cửa lớn nhỏ đều đã hư hỏng vì thời gian nên mỗi khi có mưa gió rất cực khổ. Phía dưới nền nhà được đúc suốt dùng làm hầm chứa nước để dự trữ.
Phía trên trần nhà cũng đúc bêtông và được đặt hai khẩu súng đại liên 50 li, một khẩu đã hỏng và một khẩu còn dùng được. Tất cả vật dụng cũng như súng ống và đạn dược thì đảo trưởng cho lau chùi sạch sẽ vô dầu mỡ và cất vào kho. Ngoại trừ có ít lựu đạn đảo trưởng cất giữ để đánh bắt cá. Đây thật ra cũng là chủ ý của đảo trưởng, sợ anh em khi có xích mích, nóng giận mà sử dụng thì rất nguy hiểm.
Trước mặt nhà ở khoảng 150m có một nhà thờ Thiên Chúa giáo, trong có treo một cây thánh giá và tượng chúa Giêsu, thường những anh em có đạo hay đến cầu nguyện. Trước nhà thờ khoảng 50m có một cái giếng dùng được, bên cạnh có một cây dừa. Phía sau nhà ở có một con đường mòn nhỏ mà anh em thường ra đi dạo và đánh bắt cá. Phía bên phải có một cái miếu ở trong cũng thờ tự và cạnh bên có những ngôi mộ phần nhiều là vô danh.
Thức ăn trên đảo qua những ngày đầu nào thịt gà, vịt, heo. Đến lúc hết thì chỉ cá và rau cỏ trồng. Nhớ những lúc rau muống chưa kịp lên thì dùng cá nấu với lá ớt làm canh. Ban đêm chúng tôi chia từng tốp dạo quanh đảo tìm những con rùa biển (còn gọi là con vích) lên bãi cát để đẻ. Khi bắt được, chúng tôi lật ngửa nó ra để sáng hôm sau xẻ thịt. Thịt của nó rất ngon, cái thì ăn cái thì phơi khô, riêng trứng thì tròng đỏ đổ (chiên) làm chả, không thể luộc được vì tròng trắng của nó không bao giờ chín. Lúc chẳng biết làm gì thì người đánh đàn, kẻ đánh bài ăn thua nhau bằng thuốc lá hoặc khô cá. Có nhiều anh hết thuốc hút thì dùng lá đu đủ tía phơi khô rồi hút. Cuộc sống nhàn rỗi trên đảo khiến anh em buồn và nhớ nhà, thỉnh thoảng lại có một binh sĩ khóc suốt cả đêm liền.
Ký ức của tôi chỉ tạm tái hiện phần nào. Bởi lẽ hơn 40 năm rồi tôi không thể diễn tả hết những gì mình đã nhớ trong quãng thời gian sống trên đảo. Tôi mong sao Chính phủ đấu tranh để giành lại quần đảo Hoàng Sa, giành lấy chủ quyền lãnh hải của Tổ quốc. Mong sao có ngày được trở lại để ôn lại những kỷ niệm xưa và hưởng không khí trong lành của biển đảo.
Công Bính