Cạm bẫy của những kẻ bất lương

Lợi dụng cuộc sống khó khăn, đói nghèo và sự hạn chế về nhận thức của người dân, những kẻ bất lương chuyên lừa đảo đã tìm đến Xiêng My (Tương Dương, Nghệ An) dụ dỗ phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài và rủ rê đàn ông khỏe mạnh đi làm không công tại các bãi vàng.

Những gia đình ly tán

Biết tin chị Lương Thị Thủy, con dâu ông Vi Văn Nguyên và bà Vi Thị Đào ở bản Piêng Ồ vừa bỏ đi chừng 2 tuần, chúng tôi tìm đến nhà để tìm hiểu thực hư.

Thấy chúng tôi bước lên cầu thang, bé Vi Văn Cường chợt khóc ré lên. Bà Đào bế đứa cháu nội chưa đầy 3 tuổi và rót nước mời khách. Bà nói trong nước mắt: “Mẹ nó bỏ đi, nó nhớ nên khóc suốt, có khi nó khóc từ nửa đêm tới sáng”.

Qua câu chuyện của bà Đào, được biết con trai bà đang làm ăn xa, vợ con ở nhà với bố mẹ chồng. Lâu nay, cuộc sống gia đình hết sức bình thường. Vậy mà một buổi trưa nắng, chị Thủy bảo với ông bà là vào rừng tìm trâu, vì con trâu của gia đình 2 ngày nay không thấy về.

Tối hôm đó, chị Thủy không về nhà. Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo, chị cũng không về. Cũng từ buổi chiều hôm đó, ông Nguyên và bà Đào liên tục gọi vào số điện thoại di động của con dâu nhưng không liên lạc được.

Những người hàng xóm của bà Đào đoán rằng có thể chị Thủy đã sang Trung Quốc lấy chồng theo lời dụ dỗ của một ai đó.

Bà Lô Thị Thân, cán bộ Chi hội Phụ nữ bản Piêng Ồ cho biết, tính đến nay cả bản có khoảng 50 người đã bỏ nhà ra đi. Và có rất nhiều lý do để chị em từ bỏ gia đình để đến với “miền đất hứa”. Phần nhiều chị em ra đi vì chồng nghiện ma túy, không chịu làm ăn, lại bán hết hết tài sản để nuôi “con ma trắng”, thiếu tiền mua thuốc thì giở trò hành hạ vợ con.

Chán ngán cảnh gia đình, trong lúc có những người đến dụ dỗ đi xa làm công việc nhàn hạ, thu nhập cao, lấy được chồng giàu nên nhiều người đã từ bỏ tất cả để đi tìm cho mình “vận may” mới.

Điển hình như bà Khay, từ Trung Quốc trở về đưa 3 người phụ nữ ở xã Yên Hòa đi biệt tích. Những người trở về như bà Khay thường ăn mặc đẹp, đeo nhiều thứ trang sức để làm “mồi”. Không ít người ở nhà đã “lóa mắt” và dễ dàng “cắn câu” mà không thể biết bản thân mình đang bị biến thành một món hàng trong tay những kẻ bất nhân.

Nằm cạnh bản Piêng Ồ là bản Noóng Mò. Xét về mặt số lượng chị em phụ nữ bị lừa bán sang Trung Quốc thì Noóng Mò không hề thua kém Piêng Ồ khi con số này hiện lên tới trên 50.

Cá biệt, có trường hợp con gái ông Vi Công Thưởng là Vi Thị May Pòng (16 tuổi), bị dị tật và thiểu năng về trí tuệ đã bị những kẻ chuyên hành nghề buôn người đến dụ dỗ đem đi. Đến nay, đã hơn nửa năm vợ chồng ông Thưởng vẫn chưa có tin tức gì về con gái của mình.

Nhà nghèo, bản thân ông cũng bị bệnh tật nên dù rất thương nhớ con nhưng không có tiền đi tìm, mà cũng không biết ở đâu mà tìm.

Anh Vi Văn Hiếu, Bí thư Đoàn xã Xiêng My cho biết: “Tổ chức Đoàn thanh niên đã ra sức tuyên truyền nhưng thực tế không mấy hiệu quả”.

Chuyện kể của những phu vàng
 
Đến bản Khe Quỳnh, được tin trong bản có 6 người vừa thoát chết trở về từ một bãi vàng ở tỉnh Phú Yên, chúng tôi liền tìm đến nhà ông Lô Văn Thuận để tìm hiểu thực hư.
 
Bởi lẽ, hai người con trai của ông là Lô Văn Thành (sinh 1985) và Lô Văn Thượng nằm trong đoàn 6 người vừa ở chốn “địa ngục” trở về. 
Cạm bẫy của những kẻ bất lương - 1

Ông Lô Văn Thuận (giữa) và 2 con Lô Văn Thành, Lô Văn Thượng kể lại những ngày bị đày đọa nơi bãi vàng


Số là sau tết Nguyên Đán Nhâm Thìn mấy ngày, nghe theo lời dụ dỗ của Lương Văn Hà, người cùng bản nhưng đi làm ăn xa từ mấy năm nay, anh em Thành- Thượng và 4 người cùng bản là Lữ Văn Chồm, Lương Văn Bút và hai anh em Lữ Văn Cháu, Lữ Văn Năm lên đường vào Phú Yên.

Theo lời của Lương Văn Hà thì vào đến Phú Yên mọi người làm công việc khai thác gỗ, thu nhập cao và thời gian làm chỉ độ 3 tháng, sau đó sẽ về quê để tiếp tục làm ăn.

Nghe nói bùi tai, nghĩ rằng ở quê đang là thời điểm nông nhàn, tranh thủ đi làm 3 tháng kiếm thêm ít tiền về làm vốn, mọi người liền thu xếp hành lý để lên đường cùng với Lương Văn Hà.

Đến nơi, Hà giao cả 8 người cho một đối tượng khác, đối tượng này là người địa phương. Người này tổ chức đưa họ vào rừng sâu bằng xe máy và cả đi bộ suốt hai ngày. Nhưng họ bị đưa đến một bãi khai thác vàng thủ công thuộc địa phận huyện Sông Hinh.

Tại đây, họ được bọn “đầu nậu” chia thành 2 nhóm với máy hút cát sạn và vòi rồng để thực hiện việc đào đãi vàng sa khoáng. Thời gian làm việc 12 tiếng mỗi ngày, công việc vô cùng nặng nhọc.

Hàng ngày, phải khiêng máy đi vào các lối mòn và khe suối trong rừng sâu để khai thác. Những kẻ tay chân của chủ luôn luôn kèm cặp, chúng sẵn sàng dùng gậy gộc để phang vào người khi lơi là công việc.

Khi làm việc, những “phu vàng” này luôn bị giám sát, chỉ cần ngơi nghỉ tay chân một vài phút là có thể bị nhận đòn roi. Nơi trú chân ban đêm của cả 8 người là căn lều chật chội được làm bằng tấm bạt.

Dưới cái nắng như đổ lửa và những trận mưa như trút nước, có lúc những “phu vàng” đã phải bật khóc vì nhớ nhà, vì cảm thấy cực nhục. Sau những ngày lao lực, toàn thân đau buốt, Lô Văn Thành xin nghỉ một ngày nhưng bọn chủ nhất quyết không cho.

Thành cãi lại, lập tức bọn chúng dùng vòi rồng xịt thẳng vào mặt anh. Sức mạnh của dòng nước phun ra từ vòi rồng khiến Thành ngã dúi dụi và trượt chân xuống hố khai thác vàng. Anh lảo đảo đứng dậy, mặt mày tối tăm, đầu óc choáng váng nhưng vẫn phải tiếp tục làm việc.

Khi hết thời hạn 3 tháng, mọi người đề nghị thanh toán tiền công thì bọn chủ vẫn không chịu trả. Không những thế, tên “đầu nậu” còn tuyên bố cả họ phải làm việc ít nhất là 12 tháng mới thanh toán luôn thể.

Biết mình đã bị đưa vào “hang cọp”, chỉ có cách duy nhất là trốn khỏi nơi đây may ra mới tìm được đường về nhà, mọi người quyết định cùng bỏ trốn khi có cơ hội. Cơ hội đã đến khi một đêm trời mưa to, gió lớn, cả nhóm người xếp hành lý rồi băng vào đêm tối.

Nhưng khốn nỗi rừng núi hoang vu, bóng đêm dày đặc, phía trước còn rất mông lung, phía sau bọn chủ đang truy đuổi, có lúc mọi người tưởng chừng như không còn hy vọng. Trong hành trình đào thoát khỏi bãi vàng, mọi người luôn ở trong tình trạng đói khát, mệt mỏi, chân tay và toàn thân tứa máu.

Bao nhiêu sự hiểm nguy và cái chết luôn rình rập và có thể ập đến bất cứ lúc nào. Đói phải ăn cây chuối rừng, khát phải uống nước suối, mệt không dám nghỉ lâu vì sợ một lần nữa rơi vào tay bọn “đầu nậu”.

Sang đến ngày thứ 3, có 2 người trong đoàn bắt đầu lên cơn sốt rồi xỉu dần. Những người còn lại phải thay nhau cõng hoặc dìu 2 người bị ốm. Đến sáng ngày thứ 5, mọi người đi qua một rẫy sắn và biết rằng đã sắp đến một bản làng nào đó. Dừng chân xin sắn nướng ăn và hỏi đường đi tiếp, chủ rẫy sắn đã nhiệt tình giúp đỡ.

Đến chiều, đoàn người bỏ trốn tìm đến một ngôi làng nằm giữa chốn đại ngàn thuộc xã Sông Hinh, huyện Sông Hinh (Phú Yên) để xin tá túc. Dân bản nơi đây đã dang tay cưu mang, che chở những người lỡ đường và đói khát.

Ngừng một lát, Lô Văn Thành nói tiếp: “Chúng em về được đến nhà như thế này là may mắn lắm rồi. Em vừa nhận được tin 2 người bạn ở huyện Kỳ Sơn đã bị bọn chủ cho người đánh chết trên đường chạy trốn ở một bãi vàng thuộc tỉnh Quảng Nam”.
Theo Trà Ngân
Vietnamnet