Thứ trưởng Bộ Ngoại giao:

"Các nhà ngoại giao Việt Nam phải chuyên nghiệp chí ít bằng các đồng nghiệp ASEAN"

(Dân trí) - “Các cán bộ đối ngoại phải có bản lĩnh và năng lực ngang tầm nhiệm vụ, và nhất là phải có kiến thức và kỹ năng thực sự chuyên nghiệp trên các mặt... Các nhà ngoại giao Việt Nam phải đạt trình độ chuyên nghiệp chí ít bằng mức các đồng nghiệp ASEAN”, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đặng Đình Quý chia sẻ nhân dịp Hội nghị ngoại giao 29.

Xin Thứ trưởng cho biết những điểm mới quan trọng và đáng chú ý nhất về đường lối đối ngoại trong văn kiện Đại hội XII?

Lần đầu tiên, nhiệm vụ đối ngoại nằm trong các thành tố của chủ đề Đại hội. Chủ đề đại hội và tiêu đề Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng là “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Như vậy, so với Đại hội XI, Đại hội XII đã bổ sung vào chủ đề nội dung “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định” để nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong tổng thể đường lối phát triển đất nước và đồng thời nêu rõ hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại là bảo vệ Tổ quốc và giữ vững môi trường hòa bình ổn định để chúng ta triển khai các nhiệm vụ xây dựng đất nước trong 5 năm tới và các năm tiếp theo.

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đặng Đình Quý
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đặng Đình Quý

Văn kiện Đại hội XII cũng đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất mục tiêu đối ngoại. Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu trong Văn kiện Đại hội XI. Văn kiện Đại hội XII làm rõ hơn và phát triển thành “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng ta khẳng định: Thứ nhất, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là đồng nhất; thứ hai, lợi ích quốc gia – dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, không phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi; thứ ba, bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối ngoại, lợi ích quốc gia – dân tộc phải là tối thượng, là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại.

Lần đầu tiên, phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại được nêu rõ hơn. Trong văn kiện Đại hội Đảng khẳng định phương châm đối ngoại “vừa hợp tác, vừa đấu tranh.” Trước đó, phương châm này đã được nêu trong nghị quyết Trung ương VIII (2003), nhưng ở tầm văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng, đây là lần đầu tiên Đảng ta khẳng định phương châm này để nhấn mạnh tính chất hai mặt, đan xen trong quan hệ đối ngoại và theo đó là sự linh hoạt trong quan hệ đối ngoại của chúng ta để phục vụ lợi ích quốc gia – dân tộc.

Quan điểm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được nêu cụ thể hơn. Hai nhiệm vụ đối ngoại “giữ vững môi trường hòa bình” và “bảo vệ vững chắc Tổ quốc” có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu giữ vững được môi trường hòa bình, các hoạt động đối ngoại đã thực hiện được phương châm thêm bạn bớt thù, tức là đã đóng góp trực tiếp vào việc bảo vệ Tổ quốc từ xa và giữ nước từ khi nước chưa nguy. Điều này giúp khẳng định vị thế và vai trò chủ công, là tuyến đầu của công tác đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra, Văn kiện lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Điều đó có nghĩa là lần đầu tiên Đảng ta cụ thể hóa nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc có nghĩa là phải bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; Đảng, Nhà nước; nhân dân; và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây đồng thời là nội hàm chính của lợi ích quốc gia – dân tộc, là những lợi ích cốt lõi và sống còn toàn Đảng toàn dân ta quyết tâm bảo vệ đến cùng. Đồng thời văn kiện Đảng cũng nêu rõ phương châm “kiên quyết, kiên trì,” theo đó đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, không được nóng vội, manh động mà phải tận dụng mọi biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, tận dụng mọi kênh, mọi phương thức có thể trong khi không loại trừ bất kỳ biện pháp, phương cách nào để quyết bảo vệ đến cùng các lợi ích kể trên.

Các quan điểm chỉ đạo, định hướng lớn đối với quá trình hội nhập quốc tế được nêu rõ hơn trong văn kiện Đại hội XII. Định hướng hội nhập quốc tế được nêu trong Văn kiện Đại hội XI được Văn kiện Đại hội XII cụ thể hóa bằng những quan điểm chỉ đạo cụ thể gồm: Thứ nhất, phải bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị. Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước. Thứ ba, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế. Và thứ tư, hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi.

Văn kiện Đại hội XII cũng nêu nõ những định hướng lớn đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác. Theo đó, trong 5 năm tới, hội nhập kinh tế quốc tế tập trung vào quá trình triển khai các cam kết đã ký kết; hội nhập trong lĩnh vực chính trị tập trung vào việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ đã xác lập đi vào thực chất; hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, diễn tập chung và các hoạt động khác; và hội nhập trong lĩnh vực văn hóa – xã hội tập trung vào việc áp dụng và tham gia xây dựng các bộ tiêu chí phục vụ xây dựng nền kinh tế trí thức, con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Đặc biệt, văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển công tác đối ngoại đa phương. Định hướng về công tác đối ngoại đa phương được nêu rõ: “Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương”, và “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc”. Định hướng này đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”, nhất là vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, mà còn phải phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương. Xuất phát từ lợi ích quốc gia – dân tộc, phát huy vai trò tức là phải nâng cao được vị thế, vai trò và tận dụng hiệu quả vị thế, vai trò tại các cơ chế đa phương để bảo đảm các lợi ích phát triển và an ninh của đất nước. Định hướng này cũng chỉ rõ các cơ chế đa phương được ưu tiên trong 5 năm tới là ASEAN và Liên hợp quốc.

Theo Thứ trưởng, việc triển khai hoạt động đối ngoại cụ thể theo những điểm mới trên sẽ tạo ra những thuận lợi và thử thách gì mới đối với công tác đối ngoại trong giai đoạn tới?

Trong bối cảnh tình hình thế giới chuyển biến rất nhanh, với những tác động thuận nghịch đan xen đối với nước ta thì đường lối chính sách đối ngoại mà Đại hội XII đưa ra có giá trị định hướng rất quý báu và tạo thuận lợi lớn cho công tác đối ngoại thời gian tới. Cụ thể, công tác đối ngoại sẽ được xây dựng trên một cơ sở đồng thuận xã hội lớn hơn, đó là lợi ích quốc gia – dân tộc. Đồng thuận lớn hơn sẽ góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường nhất trí trong toàn bộ hệ thống chính trị về các vấn đề đối ngoại, và theo đó huy động nhiều hơn nữa nguồn lực bên trong cho công tác đối ngoại và kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác đối ngoại. Bài học “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công đại thành công” mà Hồ Chủ tịch đã dạy sẽ càng được phát huy từ việc thống nhất theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc trong công tác đối ngoại.

Quan trọng hơn, nhấn mạnh việc theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc đã góp phần khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đối ngoại. Đảng không có lợi ích gì khác ngoài việc theo đuổi lợi ích quốc gia dân tộc. Lợi ích quốc gia – dân tộc đã trở thành tiêu chí tối cao để đánh giá hiệu quả sự chỉ đạo của Đảng trong hoạch định và của toàn bộ hệ thống trong triển khai đường lối đối ngoại của Đảng. Sự khẳng định theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc còn làm cơ sở cho chúng ta áp dụng bài học đối ngoại rất thành công trong thời đại Hồ Chí Minh là “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Giờ đây, “cái bất biến” được khẳng định là lợi ích quốc gia – dân tộc, và đó là cơ sở gốc để chúng ta ứng xử một cách có nguyên tắc nhưng rất linh hoạt và “vạn biến” trong công tác đối ngoại.

Cuối cùng, việc theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc còn tạo cơ sở ngày càng vững chắc để chúng ta đấu tranh và hợp tác với các đối tác bên ngoài. Chúng ta chỉ theo đuổi những lợi ích quốc gia – dân tộc không vị kỷ, hẹp hòi, quan tâm đến lợi ích của đối tác và phù hợp với luật pháp quốc tế. Đây là những cơ sở rất có sức thuyết phục để chúng ta triển khai công tác đối ngoại, do tạo ra điểm đồng lợi ích để xây dựng quan hệ cùng có lợi với các đối tác và tạo cơ sở đấu tranh khi lợi ích không song trùng.

Công tác đối ngoại triển khai nghị quyết Đại hội XII cũng sẽ gặp phải một số thử thách lớn hơn trước. Ngoài thực tế là tình hình thế giới và khu vực đang có những chuyển biến nhanh chóng và khó lường tạo ra các thách thức mới, yêu cầu đối với công tác đối ngoại của nước ta trong thời gian tới sẽ tạo ra các thử thách lớn hơn mà công tác đối ngoại cần phải xử lý. Thứ nhất, thời gian 5 năm tới là giai đoạn then chốt của sự nghiệp đổi mới ở nước ta để đưa nước ta bước vào hàng ngũ nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa với các mô hình tăng trưởng mới và bền vững hơn. Công tác đối ngoại phải phục vụ nhiệm vụ then chốt này. Không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ tạo và giữ môi trường hòa bình ổn định, công tác đối ngoại phải trực tiếp phục vụ phát triển đất nước thông qua việc khai thác các nguồn lực bên ngoài và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế để củng cố sự kết nối của nước ta về kinh tế, chính trị - an ninh, văn hóa - xã hội với khu vực và thế giới, tức là phải trở thành cầu nối quan trọng để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.

Thứ hai, công tác đối ngoại đã trở thành tuyến đầu trong việc bảo vệ an ninh và chủ quyền đất nước và bảo vệ đất nước từ xa. Để làm được điều này, công tác đối ngoại phải đóng góp trực tiếp vào việc đưa các mối quan hệ của Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu để củng cố xu thế hữu nghị và hợp tác của các đối tác đó với Việt Nam, đồng thời chủ động và tích cực tham gia tạo dựng luật chơi trong các tổ chức đa phương, nhất là ASEAN và Liên hợp quốc để có thể tận dụng chính các luật chơi đó bảo vệ có hiệu quả quyền lợi quốc gia – dân tộc của chúng ta. Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “công tác đối ngoại có vai trò đi đầu trong việc đảm bảo môi trường hòa bình thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nói cách khác, Đảng, Nhà nước và nhân dân đang có những kỳ vọng mới đối với công tác đối ngoại, và điều đó yêu cầu ngành đối ngoại phải chủ động và tích cực hơn đương đầu với những thử thách mới để hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Thứ ba là công tác đối ngoại đã ngày càng trở nên đa dạng và toàn diện, đòi hỏi sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị, tất cả các bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp và cả người dân. Điều này làm cho yêu cầu xây dựng và hoàn thiện cơ chế thống nhất quản lý công tác đối ngoại, công tác xây dựng và nâng cao năng lực hội nhập ngày càng trở nên quan trọng hơn, và nhu cầu giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập cũng đã trở nên bức thiết hơn.

Những điểm mới kể trên có tạo ra những thử thách lớn hơn đối với các nhà ngoại giao, đặc biệt là các nhà ngoại giao trẻ?

Tại Hội nghị Ngoại giao 28, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nói: “Trong thời bình, cán bộ ngoại giao phải đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn nhân lực cho phát triển đất nước”. Điều đó có nghĩa là cán bộ đối ngoại đang có vinh dự trở thành người chiến sĩ trên mặt trận hàng đầu bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Vinh dự lớn hơn bao giờ cũng đi kèm với trách nhiệm lớn hơn. Nhiệm vụ mới đang đặt ra yêu cầu là các cán bộ đối ngoại càng phải có lập trường tư tưởng vững chắc, yêu nước và trung thành với Đảng và dân tộc. Đặc biệt, các cán bộ đối ngoại cũng phải hiểu biết rất rõ tình hình đất nước, các yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới để định hướng công việc của mình. Đồng thời, các cán bộ đối ngoại phải có bản lĩnh và năng lực ngang tầm nhiệm vụ, và nhất là phải có kiến thức và kỹ năng thực sự chuyên nghiệp trên các mặt, nhất là chính trị quốc tế, kinh tế và luật pháp quốc tế, ngoại ngữ và nghiên cứu để có thể hoạt động có hiệu quả trong cả môi trường đối ngoại song phương và đa phương. Trong thời gian tới, các nhà ngoại giao Việt Nam phải đạt trình độ chuyên nghiệp chí ít bằng mức các đồng nghiệp ASEAN. Đây là những yêu cầu và thử thách mới không hề nhỏ đối với cán bộ đối ngoại trong thời gian tới.

Các cán bộ ngoại giao trẻ càng phải cố gắng nhiều hơn nữa. Đó là vì việc trau dồi tư tưởng lập trường chính trị, nâng cao kiến thức, tinh thần và tác phong chuyên nghiệp là một quá trình phấn đấu lâu dài và bền bỉ thường xuyên theo nguyên lý “lượng biến thành chất”. Theo đó, kiến thức và kỹ năng phải được tích lũy, bản lĩnh phải được thử thách từ trong công việc hàng ngày. Đặc biệt, các cán bộ ngoại giao trẻ còn phải đề cao nhiệt huyết, tinh thần năng động, đổi mới, dám nghĩ dám làm của tuổi trẻ để nhanh chóng trưởng thành trong công việc, đóng góp sức trẻ vào sự phát triển của ngành đối ngoại trong tình hình mới.

Xin cảm ơn ông!

Trúc Linh (ghi)