Bộ trưởng KH & CN: "Chất lượng nghiên cứu còn có vấn đề"
"Quả thực chất lượng nghiên cứu còn có vấn đề, biểu hiện công bố quốc tế của Việt Nam, đăng ký sáng chế của chúng ta còn thấp so với thế giới", Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân nhìn nhận.
Bạn đọc tham gia đặt câu hỏi gửi về địa chỉ email doithoai@chinhphu.vn
Nguyễn Thanh Thảo, Trần Quốc Bình, phố Hoàng Văn Thái, Thanh Xuân; Lê Thanh, Phố Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội hỏi: Thưa Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020, chiến lược được kỳ vọng sẽ tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong hiệu quả của tổ chức, hoạt động và quản lý khoa học và công nghệ, xin Bộ trưởng có thể cho biết những điểm mới, điểm khác biệt cơ bản trong bản chiến lược này?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Ngày 11/4/2012, Thủ tướng đã ban hành Quyết định 418 phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 – 2020. Một số nội dung mới so với trước là:
Những mục tiêu cụ thể của chiến lược và một số giải pháp thúc đẩy KHCN VN. Cụ thể bao gồm, Đến năm 2020, khoa học và công nghệ góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và tái cấu trúc nền kinh tế, giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% GDP. Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt trên 20%/năm giai đoạn 2016 - 2020, Giá trị giao dịch của thị trường khoa học và công nghệ tăng trung bình 15 - 17%/năm. Trình độ phát triển KHCN, phấn đấu là 1 trong những nước có thứ hạng trong khu vực ASSEAN. Số Số lượng công bố quốc tế từ các đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước tăng trung bình 15 - 20%/năm, tốc độ đăng ký sang chế giải pháp hữu ích tăng 1,5-2 lần sao với 5 năm trước. Phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ đạt trên 2% GDP vào năm 2020. Bảo đảm mức đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ không dưới 2% tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm. Tăng cường tiềm lực KHCN, xây dựng 60 cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao…
Có hệ thống 5000 doanh nghiệp KHCN để đóng góp quan trọng cho tăng trưởng.
Đội ngũ KHCN đủ trình độ với tỷ lệ 11-12người/1 vạn dân vào 2020, hệ thống khoảng gần 2.000 tổ chức KHCN của NN và các thành phần kinh tế khác.
Chúng tôi hy vọng đến 2020, sẽ đạt trình độ nước công nghiệp theo hướng hiện đại
BTV: Có ý kiến cho rằng, việc sử dụng ngân sách Nhà nước đầu tư cho KHCN chưa được sử dụng đúng cách, đặc biệt là đầu tư cho phát triển KHCN địa phương. Là người đứng đầu Bộ KHCN, quan điểm của ông về ý kiến này như thế nào?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Cảm ơn độc giả đã đặt câu hỏi rất chính xác, hiện nay mức chi cho KHCN chiếm 2% tổng chi ngân sách. Việc sử dụng nguồn kinh phí này chưa đạt hiệu quả cao, trong đó chủ yếu là do cơ chế phân bổ ngân sách, hàng năm chúng ta dành khoảng 42-43% kinh phí này cho đầu tư phát triển và bố trí cho các bộ, ngành, địa phương tuy nhiên do quy định của luật ngân sách, quy định của luật tổ chức HĐND, UBND phân cấp thẩm quyền cho địa phương nên nhiều địa phương và một số bộ, ngành sử dụng không đúng mục đích cho đầu tư phát triển KHCN.
Nhiều địa phương, bộ, ngành sử dụng kinh phí này xây trụ sở, làm đường xá, đắp đê thậm chí làm những việc không liên quan đến KHCN. Điều đó làm giảm hiệu quả đầu tư của Nhà nước dành cho phát triển tiềm lực KHCN của các bộ, ngành, địa phương. Phần kinh phí còn lại là kinh phí sự nghiệp khoa học thì rất nhiều bộ, ngành, địa phương, tổ chức sử dụng không hiệu quả thông qua việc sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học không dành cho khoa học như xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị quá nhiều, đầu tư cho những nhiệm vụ không xứng tầm và không đáp ứng được nhu cầu phát triển của bộ, ngành, địa phương; sản phẩm nghiên cứu ít được áp dụng trong thực tiễn.
BTV: Thưa ông, ngoài việc cắt giảm thì có chế tài nào dành cho các đơn vị sự nghiệp nào được phân bổ ngân sách dành cho phát triển KHCN nhưng sử dụng không đúng mục đích không?
Trần Xuân Trình - P7 - Q3 - TP. Hồ Chí Minh: Chất lượng nghiên cứu khoa học đang là vấn đề đáng phải suy ngẫm? Giải pháp nào của Bộ KHCN để đổi mới công tác xét chọn, đánh giá, nghiệm thu các đề tài NCKH góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Về vấn đề này tôi đã có một số lần trao đổi với báo giới. Nhiều người nói hiệu quả đề tài không cao, nhiều đề tài xếp ngăn kéo. Tôi từng nói, các đề tài khoa học có những loại chắc chắn phải xếp ngăn kéo một thời gian như nghiên cứu cơ bản, phải sau 1 thời gian, chúng ta mới có thể đưa vào các chuỗi nghiên cứu tiếp tục. Trong thực tế chúng tôi cũng thấy, quả thực chất lượng nghiên cứu còn có vấn đề, biểu hiện công bố quốc tế của Việt Nam, đăng ký sáng chế của chúng ta còn thấp so với thế giới.
Một trong những nguyên nhân là quy trình thủ tục để tuyển chọn, xét chọn nghiệm thu đánh giá các đề tài, dự án nghiên cứu.
Do vậy trong đề án đổi mới cơ bản toàn diện và đồng bộ về tổ chức cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KHCN, chúng tôi đã kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ đổi mới cơ chế xác định và đánh giá các đề tài, dự án, chúng ta thường gọi là nhiệm vụ KHCN.
Trước đây xác định đề tài làm theo phương thức đề xuất từ cơ sở. Nhưng những đề xuất đó nhiều khi chưa bám sát thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội và không được doanh nghiệp đón nhận.
Chúng tôi đang chuyển dần sang cơ chế đặt hàng. Nghĩa là, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương chủ động đặt hàng nhà khoa học. Khi đặt hàng thì theo nguyên tắc, ai đặt hàng người đó hỗ trợ kinh phí, chịu trách nhiệm tiếp nhận kết quả và đưa kết quả vào sản xuất kinh doanh. Cơ chế đã bắt đầu áp dụng từ 2011, chúng tôi sẽ tiếp tục cơ chế này.
Thứ 2, tiếp tục nâng cao chất lượng hội đồng đánh giá nghiệm thu cũng như hội đồng xác định nhiệm vụ, hội đồng tuyển chọn nhiệm vụ KHCN bằng việc xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên gia khoa học với tiêu chí cao,. Để những ai đáp ứng đủ tiêu chí mới được mời tham gia vào hội đồng. Trên cơ sở đó thì chúng tôi cho rằng, các kết luận của hội đồng sẽ có chất lượng cao hơn.
Chúng tôi hy vọng cùng các đổi mới khác về cơ chế tài chính, 5 năm tới hiệu quả của các đề tài, dự án sẽ được nâng cao rõ rệt.
BTV: Nhiều bạn đọc thắc mắc, vấn đề tài chính trong khoa học đặc biệt là khâu thanh quyết toán hiện có nhiều rắc rối. Ông có giải pháp gì không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Bạn đọc đặt câu hỏi đúng bức xúc của chúng tôi và giới khoa học nói chung. Nhiều người phàn nàn về việc thanh quyết toán quá rườm rà, thậm chí có người nói, thời gian dành cho thủ tục thanh quyết toán còn nhiều hơn nghiên cứu.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đã nhận rõ những vấn đề trong thủ tục, do vậy trong đề án đổi mới chúng tôi đang trình Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi đã đề xuất một số giải pháp.
Thứ nhất, kiến nghị việc cấp phép kinh phí cho nghiên cứu chuyển dần sang cơ chế quỹ. Hiện đã có quỹ phát triển KHCN quốc gia và sắp tới đưa vào hoạt động quỹ đổi mới CN quốc gia. Nếu cấp phép kinh phí từ quỹ, sẽ không bị cản trở bởi tư duy xây dựng kế hoạch và làm dự toán kinh phí là trước 1,5 năm như hiện nay.
Thứ 2, Thủ tục của quỹ đáp ứng nhu cầu tức thời khi các nhà khoa học được đặt hàng hoặc là đề xuất những nhiệm vụ cần thiết.
Thứ 3, quỹ không bắt buộc quyết toán theo năm tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học chỉ quyết toán 1 lần khi kết thúc dự án.
Vấn đề thứ 2, chúng tôi cũng đề nghị phối hợp với Bộ Tài chính bổ sung một số nội dung chi cần thiết để giúp nhà khoa học trong quá trình thực hiện đề tài dự án như thuê chuyên gia trong và ngoài nước, kinh phí hỗ trợ đăng ký sở hữu trí tuệ, kinh phí dự phòng bù cho tốc độ trược giá. Chúng tôi cũng đề nghị đơn giản hóa thủ tục thanh quyết toán, đưa vào hoạt động cơ chế khoán chi trong hoạt động KHCN và khoán chi đến sản phẩm cuối cùng. Những chi phí dành cho nhân lực trong quá trình nghiên cứu sẽ khoán cho nhà khoa học chủ trì đề tài, dự án.
Chúng tôi cũng đề nghị sửa định mức của thông tư 44 về định mức chi trong đề tài, dự án, nâng cao định mức cho phù hợp với hiện nay.
Chúng tôi cũng hy vọng với tất cả những đề xuất đó khi được Thủ tướng phê chuẩn, giới khoa học sẽ bớt lo phiền.
BTV: Trong các cơ quan nhà nước, có lúc nào ông nghĩ rằng một số đề tài sẽ vĩnh viễn không được sử dụng mà người ta chỉ lập ra đề tài để rót ngân sách về?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Tất nhiên trong bất kỳ lĩnh vực nào người ta có thể trục lợi từ nhà nước, trong khoa học cũng không tránh khỏi. Tuy nhiên với hệ thống quản lý, với trách nhiệm cao trong tổ chức thực hiện và giám sát chúng ta có thể hạn chế tối đa những hiện tượng này.
Chúng tôi đã được Chính phủ bổ sung chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng ngân sách khoa học ở các Bộ, ngành, địa phương.
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Vấn đề là chuyển các tổ chức KHCN công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm là vấn đề đã đặt ra từ 16 năm nay từ Nghị quyết TW2 khoá VIII và sau đó là Nghị quyết TW 6 khoá IX. Nhưng chỉ thực sự bắt đầu khi Chính phủ ban hành Nghị định 115 năm 2005 và Nghị định 80 năm 2007. Và vừa rồi có điều chỉnh bổ sung bởi Nghị định 96 năm 2010.
Chính vì đây là quá trình khó khăn, có thể nói là thách thức rất lớn do các tổ chức KHCN đã quen hoạt động trong cơ chế bao cấp nhiều năm, do vậy chúng tôi đã trình Chính phủ cho phép lùi thời hạn chuyển đổi tới hết 2013.
Hiện Bộ KHCN đang cùng các bộ ngành xây dựng cơ chế để các tổ chức CN hoàn toàn có thể chuyển đổi sang cơ chế tự chủ vào 2014.
Cần phải nói rõ, nhiều người còn hiểu sai cơ chế tự chủ, cho rằng, khi chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, các tổ chức KHCN công lập không còn được Nhà nước hỗ trợ nữa. Xin nói rằng Nhà nước chỉ thay đổi phương thức cấp hoạt động kinh phí thường xuyên, trước đây cấp theo đầu biên chế của 1 tổ chức, khi chuyển sang cơ chế tự chủ thì Nhà nước cấp hoạt động kinh phí thường xuyên thông qua nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho tổ chức KHCN
Có thể là nhiệm vụ thường xuyên do chức năng của tổ chức, có thể là đề tài dự án KHCN được giao nghiên cứu.
Các đồng chí đều biết, từ trước tới nay, trong các đề tài, dự án khoa học không có phần dự toán kinh phí hoạt động thường xuyên, tức là cán bộ khoa học không được hưởng lương và chi phí khác từ đề tài dự án do Nhà nước đã trả lương và chi phí hoạt động thường xuyên qua số lượng biên chế.
Như vậy tạo ra sự bất bình đẳng giữa các tổ chức KHCN công lập và ngoài công lập. Các tổ chức ngoài công lập khi làm dự toán để đấu thầu tuyển chọn đề tài thì phải làm dự toán cả tiền lương và chi bộ máy. Trong khi tổ chức công lập thì nhà nước đã bảo đảm và không phải dự toán. Như vậy, vô hình chung các tổ chức ngoài công lập rất khó cạnh tranh về mặt đề tài dự án đối với các tổ chức công lập.
Hơn nữa, việc cấp kinh phí thường xuyên theo kiểu bao cấp tạo ra sức ỳ lớn, sự ỷ lại của các tổ chức công lập, bởi dù hoạt động không hiệu quả, nhà nước vẫn trả lương. Bây giờ khi chuyển sang cơ chế cấp phép kinh phí hoạt động thường xuyên theo nhiệm vụ, chắc chắn, tổ chức nào hoạt động tốt sẽ có thu nhập nhiều hơn, làm nhiều đề tài, dự án được hưởng nhiều lương hơn, ai không làm việc thì chắc chắn không được hưởng. Ở đây cũng nói rõ, Nhà nước cũng đã phân loại có 4 nhóm tổ chức KHCN để có 4 phương thức hỗ trợ khác nhau.
Nhóm đã từng tự chủ, đã tự bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên từ nhiều năm nay, thì tiếp tục được Nhà nước được giao quyền tự chủ về tổ chức biên chế và xác định nhiệm vụ. Đồng thời Nhà nước cho thêm chức năng kinh doanh như doanh nghiệp và hưởng mọi ưu đãi như doanh nghiệp.
Thứ 2 là nhóm hiện nay mới chỉ đảm bảo được một phần kinh phí hoạt động thường xuyên, nhà nước cho phép tiếp tục cấp kinh phí hoạt động thường xuyên theo phương thức cũ tới hết 2013. Từ 2014, Nhà nước vẫn tiếp tục hỗ trợ nhưng theo phương thức mới.
Nhóm 3 là tổ chức KHCN xây dựng làm nghiên cứu cơ bản, chiến lược chính sách và làm dịch vụ phục vụ quản lý nhà nước. Đây là nhóm mà sản phẩm của họ chỉ có nhà nước mới mua, nhà nước bao tiêu sản phẩm và hỗ trợ toàn diện để tổ chức đó hoạt động thông qua cấp kinh phí hoạt động thường xuyên theo phương thức khoán. Đương nhiên tổ chức này khi làm đề tài, dự án vẫn tiếp tục nhận được kinh phí thông qua chi thường xuyên của các đề tài, dự án.
Nói khác đi, các nhà khoa học vừa được hưởng lương cơ bản từ ngân sách nhà nước cấp theo phương thức khoán, vừa được hưởng lương từ dự án.
Nhóm 4 là các tổ chức khoa học công nghệ được thành lập sau ngày nghị định 96 có hiệu lực. NN sẽ bao cấp 4 năm để họ có đủ thời gian ổn định hoạt động. Khi đã ổn định NN mới cấp kinh phí hoạt động theo phương thức mới.
Chúng tôi hy vọng các nhà khoa học, tổ chức KHCN hiểu rõ bản chất Nghị định 115, hưởng ứng và cùng với chúng tôi hoàn thành việc chuyển đổi tổ chức của mình theo tinh thần của Chính phủ tại Nghị định 96 cũng như 115 và 80.
phan duc dung [phanducdung86@...com]: Nhà nước có khuyến khích, hỗ trợ tư nhân trong nghiên cứu KHCN không? (Vì dù là tư hay là công mà sản phẩm nghiên cứu hiệu quả thì đều vì đất nước mình cả).
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Bạn hỏi một câu rất thú vị, rất nhiều người trong bộ máy của chúng ta vẫn hiểu rằng ngân sách Nhà nước chỉ chi cho các cơ quan của Nhà nước. Nhưng trong hoạt động KHCN nhiều năm nay chúng tôi kiên trì thuyết phục các bộ, ngành rằng NSNN là do người dân đóng thuế, người dân thì thuộc mọi thành phần kinh tế, không chỉ của Nhà nước vì thế Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ trở lại cho mọi thành phần kinh tế khi họ có ý tưởng sáng tạo, có nghiên cứu đem lại lợi ích cho xã hội.
Thực tế trong nhiều năm qua, Bộ KHCN đã thực hiện phương châm này, chúng tôi không chỉ hỗ trợ cho khu vực Nhà nước mà còn cho các tổ chức KHCN ngoài Nhà nước, thậm chí các tổ chức KHCN của tư nhân cũng có quyền bình đẳng trong việc tuyển chọn các nhiệm vụ KHCN ở cấp Nhà nước và các cấp khác. Đồng thời hỗ trợ cho DN tư nhân và DN của các thành phần kinh tế khác trong quá trình đổi mới KHCN.
Ngay từ năm 1999, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 119 hỗ trợ DN đổi mới CN. Nhiều DN đã phát triển và trở thành DN lớn nhờ những dự án đổi mới KHCN có sự hỗ trợ của nhà nước.
Trong những năm gần đây quá trình này đã được đẩy mạnh hơn. Điển hình là Xí nghiệp Cơ khí Quang Trung-Ninh Bình là một DN tư nhân, nhưng nhờ một số dự án, đề tài mà Bộ KHCN hỗ trợ theo NĐ 119 cũng như các chương trình KHCN trọng điểm cấp Nhà nước mà Xí nghiệp cơ khí Quang Trung -Ninh Bình trở thành một DN lớn đã có những sản phẩm lớn đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế xã hội ở các nhà máy đóng tàu, nhà máy Thủy điện Sơn La, nhà máy thủy điện Sê San, sắp tới là nhà máy Thủy điện Lai Châu.
Bản thân Giám đốc DN trở thành Anh hùng Lao động và được giải thưởng Hồ Chí Minh về KHCN, Xí nghiệp là tập thể Anh hùng Lao động.
Cho đến thời điểm hiện nay chúng tôi tiếp tục hỗ trợ rất nhiều DN khác cũng như các thành phần kinh tế và cá nhân nhà khoa học. Chúng ta thường nghe nói nhiều người nông dân, những nhà khoa học chân đất có sáng kiến cải tiến, Bộ KHCN trong nhiều năm qua đặc biệt quan tâm vấn đề này.
Chúng tôi giao cho Sở KHCN thường xuyên quan tâm hỗ trợ cho người nông dân có sáng kiến, khi tổ chức Chợ công nghệ và thiết bị (Tech Mart) chúng tôi đều mời những người nông dân có sáng kiến tham dự hội chợ giới thiệu sản phẩm của mình và sau đó các Sở KHCN có thể giúp họ hoàn thiện sản phẩm.
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Về vấn đề cháy nổ xe cơ giới- vấn đề gây bức xúc xã hội trong thời gian gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo liên Bộ Công an, Giao thông vận tải, Khoa học và Công nghệ và Công Thương phối hợp xác minh nguyên nhân và đề xuất giải pháp hạn chế cháy nổ xe cơ giới.
Tất nhiên đây mới là kết quả bước đầu. Vừa rồi, Bộ Công an đã chủ trì cùng các Bộ tổ chức họp báo công bố bước đầu các kết quả điều tra về nguyên nhân gây cháy nổ. Có thể kết luận này chưa làm thoả mãn quan điểm của nhiều độc giả. Tuy nhiên, có thể nói, việc cháy nổ xe cơ giới không phải hiện tượng cá biệt của Việt Nam, tất cả các nước trên thế giới đều có hiện tượng này, chỉ khác nhau về mức độ. Có những nước tỷ lệ cháy nổ cao hơn chúng ta, nhưng cũng có nước thấp hơn.
Vừa rồi, tỷ lệ này ở nước ta tăng đột biến trong 2 năm 2010 và 2011. Cho nên, xã hội cũng rất bức xúc và yêu cầu Chính phủ phải làm thật rõ để có giải pháp ngăn chặn. Tôi cho rằng, xăng dầu được xã hội đặt vào vòng ngắm đầu tiên. Tuy nhiên, xăng dầu chỉ là chất cháy, để nó cháy được phải có tác động của nguồn nhiệt, cụ thể là phải có tia lửa. Vì vậy, khi xảy ra các vụ cháy nổ ô tô, xe máy, cơ quan công an cùng các bộ ngành liên quan đã tiến hành điều tra xác minh.
Chúng tôi đã yêu cầu Tổng cục Đo lường Chất lượng là cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng xăng dầu vào cuộc, lấy mẫu từ các xe bị cháy còn sót lại, lấy mẫu từ các cây xăng mà các xe này đã mua xăng theo khai báo của chủ xe để xét nghiệm. Tất cả các mẫu xét nghiệm này đều không vi phạm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xăng dầu. Vì thế, có thể nói, kết luận bước đầu của Bộ Công an đánh giá nguyên nhân cháy nổ khoảng trên 30% do chập điện, trên 15% là do sự cố kỹ thuật khác, còn lại nhiều nguyên nhân như vô tình hữu ý của người sử dụng xe gây cháy hay những nguyên nhân do tai nạn…
Những lý do này có thể chưa làm thoả mãn độc giả. Ngày hôm qua tôi có trao đổi với 1 nhà khoa học có danh tiếng và nhà khoa học này có mấy ý kiến mà chúng ta cần phải nghiên cứu. Tôi cũng đề nghị các cơ quan điều tra cần phải đi theo hướng này. Đó là các vụ cháy nổ xảy ra thì xăng dầu tại thời điểm đó không phải là nguyên nhân trực tiếp nhưng rất có thể chất lượng xăng dầu của thời gian trước đó là nguyên nhân gián tiếp gây ra những sự cố này. Ví dụ trước đó nhiều tuần, nhiều tháng, thậm chí hàng năm, nếu như xe máy có sử dụng xăng dầu pha chất phụ gia mà gây hại như axeton có thể ăn mòn chi tiết động cơ, làm thủng bình chứa xăng, thủng đường ống dẫn bằng nhựa, làm thoái hoá gioăng đệm của động cơ dẫn tới rò rỉ xăng ở mức độ nghiêm trọng và trong quá trình vận chuyển trên đường, với ma sát của các bộ phận cơ khí với tia lửa của chập điện, rất dễ xảy ra cháy nổ. Tuy nhiên, khó khăn là chúng ta không thể điều tra, xét nghiệm lại các mẫu xăng dầu của giai đoạn trước vì đã được tiêu thụ hết.
Vì vậy chúng tôi cho rằng, song song với việc tiếp tục điều tra nguyên nhân gây cháy nổ, các bộ ngành phải kiểm soát thật chặt chẽ chất lượng xăng dầu kể từ thời điểm này cho tới giai đoạn tiếp theo để tránh xảy ra cháy nổ trong giai đoạn tới.
Về chất lượng xăng dầu, chúng tôi thời gian qua đã tăng cường kiểm soát. Hàng năm các sở KHCN, các chi cục tiêu chuẩn và chất lượng cùng các trung tâm kỹ thuật về tiêu chuẩn và chất lượng của chúng tôi thường xuyên thanh tra, kiểm tra, xử phạt và công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng những cây xăng, đại lý vi phạm về đo lường chất lượng xăng dầu.
Thường thì 3-4 năm, chúng tôi tổ chức thanh tra diện rộng toàn quốc về xăng dầu, thanh tra Bộ phối hợp với thanh tra của các sở cùng với cơ quan quản lý thị trường, công an kinh tế thanh tra diện rộng và mỗi đợt thanh tra diện rộng đó, chúng tôi kiểm tra toàn bộ mạng lưới phân phối và bán xăng dầu đồng thời xử phạt hang nghìn cây xăng có vi phạm về đo lường và chất lượng xăng dầu. Tổng số tiền phạt trong những đợt này thường dao động từ 3-5 tỷ đồng.
Tất nhiên mức phạt đó chưa đủ mạnh để răn đe. Gần đây với luật xử phạt vi phạm hành chính mới mức phạt đã tăng lên, chúng tôi hy vọng là đủ sức răn đe đối với các hành vi vi phạm về chất lượng xăng dầu.
Riêng đối với xăng A83, tôi xin đính chính, hiện nay chúng ta vẫn còn có 1 số phương tiện giao thông và một số lĩnh vực vẫn sử dụng xăng A83. Đặc biệt là trang thiết bị được sản xuất trong giai đoạn trước của các nước XHCN và Liên Xô cũ. Tỷ lệ không nhiều nhưng vẫn còn sản xuất và sử dụng A83. Các đối tượng vi phạm thường sử dụng xăng A83 với giá thành thấp pha trộn với các xăng khác hoặc bán với giá xăng A92, 95 để kiếm lợi. Khi phát hiện, thanh tra KHCN cùng các cơ quan chức năng xử phạt rất nghiêm minh. Chúng tôi đã trình Chính phủ cho phép chấm dứt sử dụng xăng A83 trong thời gian tới.
Nguyen thu hang [hangvd2gmail.com]: Tình trạng người tiêu dùng bị các cây xăng "móc túi" cả về lượng và chất đã tồn tại nhiều năm nay nhưng việc xử lý còn lúng túng, chế tài xử phạt còn chưa nghiêm, vậy trách nhiệm của Bộ KHCN đến đâu? Bộ trưởng có biện pháp gì giải quyết dứt điểm tình trạng này không? Liệu có thể công bố công khai trên báo chí các cây xăng gian lận đã bị xử phạt để người dân “tẩy chay” không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Việc xử lý các vi phạm về chất lượng xăng dầu phải theo quy định của pháp luật. Bộ đã xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, Luật Đo lường, trình Chính phủ ban hành các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực này, các mức xử phạt của các Nghị định này phải tuân thủ mức xử phạt chung của Nghị định xử phạt vi phạm hành chính.
Trước đây mức xử phạt không đủ răn đe với mức phạt rất thấp. Vừa rồi mức phạt được nâng lên tới 500 triệu đồng, trong trường hợp đặc biệt còn có các chế tài khác kèm theo.
Trong thực tế, trong các đợt thanh tra diện rộng về xăng dầu, chúng tôi ngoài xử phạt về hành chính đã kiến nghị Bộ Công Thương rút giấy phép kinh doanh nhiều đại lý xăng dầu vi phạm, vi phạm cả về đo lường (đong thiếu cho khách hàng), về chất lượng (cho thêm tạp chất khác như nước, axêton, dầu hỏa, methanole… vào trong xăng dầu để kiếm lợi).
Đã có nhiều cây xăng bị thu hồi vĩnh viễn nếu vi phạm nghiêm trọng. Tất nhiên có cây xăng chỉ bị thu hồi một thời gian, điều này cũng nằm trong quy định của pháp luật nếu mức vi phạm không đủ nghiêm trọng. Hoặc doanh nghiệp có thể bị giải thể sau đó thành lập doanh nghiệp mới lại được quyền đăng ký kinh doanh thì cũng không thể loại trừ.
Tuy nhiên chúng tôi cũng thống nhất rằng phải tăng cường kiểm soát chất lượng xăng dầu, nâng mức xử phạt đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo tính răn đe của pháp luật.
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Khi chúng ta gia nhập WTO, chất lượng sản phẩm là yếu tố sống còn của doanh nghiệp, tham gia sân chơi chung của thế giới thì sản phẩm của chúng ta phải đủ sức cạnh tranh với thế giới. Nếu không thì nền sản xuất của chúng ta sẽ bị “bóp chết”. Vì vậy nhà nước phải có trách nhiệm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới CN để nâng cao chất lượng sản phẩm, tính cạnh tranh của sản phẩm trong sân chơi chung của WTO.
Thực tế, trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, Chính phủ đã có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Bởi chúng tôi biết rất rõ, doanh nghiệp của Việt Nam hầu hết là những doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp không đủ để tự đổi mới CN, ngoài trừ một số tập đoàn kinh tế lớn của nhà nước và một số doanh nghiệp đa sở hữu khác. Chính vì thế như tôi đã nói, Nhà nước có Nghị định 119 hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới CN và trong hơn 10 năm qua, nhiều doanh nghiệp được hưởng lợi từ chính sách này.
Nhà nước hỗ trợ tới 30% kinh phí của dự án đổi mới CN của doanh nghiệp và 30% này được hỗ trợ cho toàn bộ hoạt động liên quan tới KHCN như nghiên cứu áp dụng CN mới, đào tạo nguồn nhân lực về KHCN, nhập công nghệ, mua bí quyết công nghệ…
Vừa qua chúng tôi đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chương trình quốc gia về đổi mới CN và chắc chắn sự hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp của chúng ta còn cao hơn nữa. Chúng tôi cũng trình Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập quỹ đổi mới CN quốc gia với vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng. Đây quả thực là nguồn kinh phí rất lớn từ ngân sách nhà nước để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới CN. Chúng tôi cũng đã cùng với Bộ Tài chính trình Quốc hội sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp được trích tới 10% lợi nhuận trước thuế để phát triển KHCN của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, nếu doanh nghiệp chi kinh phí cho hoạt động KHCN thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, hàng ngàn doanh nghiệp của chúng ta đã thành lập quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp và dành 1 phần kinh phí thích đáng để đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, ngay cả các tập đoàn kinh tế lớn như Viettel thời gian qua đã dành 1 nguồn kinh phí rất lớn từ doanh thu tái đầu tư cho phát triển KHCN, đổi mới CN, tạo sản phẩm mới có sức cạnh tranh tốt. Chúng tôi tin rằng thời gian tới các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận với những nguồn hỗ trợ của ngân sách nhà nước để có thể đổi mới CN, tạo ra nhiều sản phẩm mới có sức cạnh tranh.
PHAM HUY NGUYEN [huynghla.09@....com.vn]: Cơ chế nào để các doanh nghiệp mặn mà với đầu tư nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào sản xuất? Vì sao rất khó khăn trong triển khai Nghị định 115?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Câu hỏi của bạn nói về 2 vấn đề rất khác nhau nhưng có một điểm chung, hiện nay gắn kết giữa nghiên cứu và sản xuất còn yếu kém, nhiều nghiên cứu không được ứng dụng trong sản xuất, ngược lại nhiều DN rất cần công nghệ lại phải mua của nước ngoài.
Chính vì thế chúng tôi đã xây dựng chương trình phát triển thị trường CN và đã trình Thủ tướng, nếu được Thủ tướng chấp thuận sẽ tạo ra sức bật mới cho thị trường CN, nối kết giữa nguồn cung CN và nguồn cầu CN, nối kết giữa các nhà nghiên cứu với sản xuất kinh doanh.
Nghị định 115 có một nội dung quan trọng là cho phép các tổ chức KHCN công lập có thể lựa chọn giữa việc họ là một đơn vị sự nghiệp của Nhà nước nhưng có sản xuất kinh doanh được hưởng ưu đãi như DN với việc họ có thể chuyển đổi toàn bộ tổ chức của họ trở thành DN khoa học sản xuất kinh doanh dựa trên nền kết quả nghiên cứu của chính họ với những sản phẩm do họ sở hữu về tài sản trí tuệ.
Nhà nước cũng cho phép các nhà khoa học được góp vốn vào DN bằng tài sản trí tuệ có thể chuyển nhượng quyền sở hữu về tài sản trí tuệ cho DN.
Tuy nhiên đúng như độc giả nói việc thực hiện Nghị định 115 theo xu hướng này vẫn còn rất khó khăn. Bởi lẽ chúng ta còn thiếu những quy định cụ thể về giao quyền sở hữu tài sản trí tuệ cho tổ chức KHCN và nhà khoa học.
Bởi chúng ta đều biết tài sản trí tuệ được hình thành từ ngân sách Nhà nước thông qua các đề tài nghiên cứu do Nhà nước tài trợ, đương nhiên quyền quyết định kết quả nghiên cứu đấy thuộc Nhà nước.
Nếu Nhà nước không có quy định giao quyền sở hữu ấy cho nhà khoa học hoặc tổ chức KHCN chủ trì các đề tài dự án thì đương nhiên các nhà khoa học không thể đem tài sản trí tuệ, kết quả nghiên cứu ấy để góp vốn vào DN hay chuyển nhượng cho DN để có được nguồn tái đầu tư cho sức sản xuất, tái đầu tư cho nghiên cứu.
Vấn đề này chúng ta vẫn coi như là tài sản Nhà nước, thứ hai là chưa có quy định là ai có đủ thẩm quyền để giao sở hữu này, đây là tài sản Nhà nước, giao tài sản Nhà nước phải có cấp thẩm quyền và có quy trình, thủ tục. Chính vì thế Bộ KHCN cùng với Bộ Tài chính ban hành quy định cụ thể là ai có thể đủ thẩm quyền để giao kết quả nghiên cứu có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, khi được giao, nhà khoa học được quyền chuyển nhượng góp vốn như thế nào và khi chuyển nhượng góp vốn thu được lợi nhuận thì nhà khoa học phải có nghĩa vụ trở lại đối với Nhà nước tức là người đã bỏ vốn đầu tư cho nghiên cứu như thế nào, đóng góp với tổ chức mà mình phục vụ mình làm việc như thế nào và quyền lợi của chính họ được hưởng như thế nào để có động lực tiếp tục nghiên cứu.
BTV: Thưa Bộ trưởng, Bộ trưởng nghĩ sao về tình trạng một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí có doanh nghiệp lớn quốc doanh vẫn nhập dàn thiết bị máy móc các nước tiên tiến không dùng từ lâu. Theo ông, tình trạng này trong vài năm tới sẽ xử lý thế nào?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Chúng ta đều biết để đổi mới CN, các doanh nghiệp phải hoặc thông qua con đường nghiên cứu, tự nghiên cứu, ứng dụng CN mới hoặc nhập khẩu CN hoặc nhập khẩu thiết bị chứa CN để tạo ra sản phẩm mới.
Đúng như bạn vừa đề cập, chúng tôi thấy nhiều doanh nghiệp hiện nay có xu hướng thích nhập công nghệ của nước ngoài, thường là nhập thiết bị toàn bộ, và khi nhập thì thường nhập CN cũ và lạc hậu. Điều này cũng xuất phát từ nguyên nhân, một là như tôi đã nói, thị trường CN của chúng ta còn manh nha, doanh nghiệp rất thiếu thông tin về nguồn CN trong nước, các nhà khoa học không nắm rõ nhu cầu CN của doanh anghiệp.
Thứ 2, tiềm lực doanh nghiệp còn non yếu, chúng ta không đủ kinh phí, tiền để mua được thiết bị, công nghệ mới, hiện đại.
Thứ 3, trình độ CN chung của nước ta còn thấp. Theo đánh giá của chúng tôi qua khảo sát, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay đang sử dụng CN lạc hậu của thập kỷ 60, 70. Rất ít doanh nghiệp sử dụng CN của thập kỷ 80, 90, chỉ có một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì sử dụng CN của những thập kỷ gần đây.
Do vậy, nếu chúng ta nhập CN mới và hiện đại, nhiều khi không phù hợp với trình độ CN chung của hệ thống. Thêm nữa, các địa phương khi phê duyệt dự án đầu tư kể cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, thường không tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, Sở KHCN, cho nên không đánh giá được trình độ CN của dự án hay dây chuyền thiết bị được nhập khẩu.
Chỉ đến khi những dây chuyền thiết bị này hoạt động gây ô nhiễm môi trường, không hiệu quả lúc ấy người ta mới nhớ đến các nhà khoa học. Nhưng các nhà khoa học lúc ấy chỉ có thể đề xuất biện pháp để xử lý chứ không thể khắc phục những hậu quả của những thiết bị , CN này đã gây ra.
Cho nên, chúng tôi cho rằng, các địa phương, bộ, ngành khi nhập khẩu trang thiết bị có liên quan tới CN nên tham khảo ý kiến của các nhà KH, các hội đồng KH và các cơ quan có trình độ đánh giá trình độ CN của các dây chuyền này để khi đưa vào sản xuất, chúng ta không hối tiếc vì đã nhập CN.
Hơn nữa nhà nước cũng nên hỗ trợ cho các DN để họ có thể nhập khẩu được CN thay vì nhập khẩu thiết bị toàn bộ bởi năng lực chế tạo thiết bị của chúng ta không phải là không có.
Chúng ta có đủ năng lực để chế tạo thiết bị có trình độ CN cao, nhưng cái thiếu của chúng ta là CN và bí quyết CN của những thiết bị này. Do vậy, thay vì chúng ta nhập khẩu cả 1 nhà máy hay dây chuyền thiết bị lớn, hãy hỗ trợ doanh nghiệp mua CN, thuê chuyên gia và sau đó đặt hàng các doanh nghiệp trong nước chế tạo những thiết bị đồng bộ hay dây chuyền sản xuất có hiệu quả cao hơn và cũng không đến nỗi ở trình độ KHCN quá thấp kém.