Tắc mạch ối - Biến chứng phụ khoa rất nguy hiểm
Tắc mạnh ối một biến chứng phụ khoa hiếm gặp cực kỳ nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao tới 80%, không thể dự phòng được và chưa có biện pháp điều trị hữu hiệu.
Ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đã xảy ra một số ít trường hợp sản phụ bị tắc mạch ối dẫn đên tử vong. Trường hợp tử vong của sản phụ Hoàng Thị N. (Tp.Vĩnh Yên) tại bệnh viện Hữu Nghị Lạc Việt vào năm 2017 là một dẫn chứng cụ thể cho thấy mức độ nguy hiểm của biến chứng tắc mạch ối.
Biến chứng tắc mạch ối do nước ối, tế bào thai nhi, chất gây, tóc, bọt khí hoặc mảnh mô chức thai khác lọt vào hệ tuần hoàn của sản phụ dẫn đến suy hô hấp và tuần hoàn cấp tín
Nước ối là dịch nằm trong buồng ối, bao quanh thai nhi nằm trong tử cung. Khi sắp đẻ ối sẽ bị vỡ, một phần nước ối sẽ chảy ra ngoài, phần còn lại sẽ chảy ra khi sổ thai và sổ nhau. Biến chứng xảy ra khi một lượng nước ối chứa các tế bào màng ối, tế bào bong ra từ thai nhi, các chất gây, cả phân su của thai,…đi vào mạch máu của tử cung về tim rồi lên phổi sẽ tích tụ lại làm nghẽn các động mạch phổi, đồng thời các thành phần trong nước ối giải phóng ra nhiều chất trung gian nội sinh gây ra hội chứng tắc mạch ối.
Biến chứng xảy ra khởi đầu là suy hô hấp ở sản phụ, tím tái xảy ra đột ngột trong vài phút, tiếp theo là tụt huyết áp, phù phổi, choáng, biểu hiện thần kinh: mất ý thức, lú lẫn và co giật. Khoảng 40% trường hợp qua được giai đoạn này có biểu hiện chảy máu dữ dội nhiều nơi do đờ tử cung (nếu sau đẻ) và do đông máu rải rác trong lòng mạch. Đặc biệt, chảy máu tử cung không thể cầm được, tỷ lệ có biểu hiện phù phổi ở giai đoạn này cũng rất cao.
Tắc mạch ối thường xảy ra trong chuyển dạ, cũng có trường hợp xảy ra khi mổ lấy thai, sảy thai, chấn thương bụng, chọc hút nước ối, thậm chí sau đẻ. Thời điểm tắc mạch ối rất khác nhau; trong đó 12% trường hợp xảy ra tắc mạch ối khi màng ối còn nguyên, 70% khi chuyển dạ, 11% xảy ra sau đẻ qua đường âm đạo, 19% trong mổ lấy thai khi chuyển dạ hay khi chưa chuyển dạ.
Bình thường, nước ối hoàn toàn nằm trong buồng ối, không đi vào tuần hoàn của người mẹ. Khi hàn rào ngăn cách khoang ối và tuần hoàn bị phá vỡ, có thể vì chênh lệch áp lực, nước ối bị đẩy vào hệ thống tĩnh mạch ở tử cung một cách bất thường, rồi nhanh chóng vào tuần hoàn của sản phụ. Các chuyên gia chưa thể lí giải vì sao nước ối vào tuần hoàn chỉ xảy ra ở một số ít sản phụ mà không xảy ra ở nhiều sản phụ khác.
Do biến chứng hay xảy ra đột ngột và tiến triển rất nhanh nên hầu hết người bệnh đều tử vong. Trường hợp thai nhi chưa xổ thì hầu hết không thể cứu kịp, bác sỹ có thể mổ ngay để cứu thai nhi nhưng tính may rủi rất lớn. Hậu quả của biến chứng tắc mạch ối gây ra hội chứng Sheehan làm chảy máu nặng dẫn tới hoại tử một phần hoặc toàn bộ thùy trước tuyến yên gây suy tuyến yên; biểu hiện bằng dấu hiệu vô kinh, rụng lông, rụng tóc, suy tuyến giáp, suy tuyến thượng thận, mất sữa. Mất máu nhiều ảnh hưởng tới sức khỏe và tinh thần sản phụ, có thể dẫn đến suy gan, suy thận, suy đa tạng, rối loạn đông máu và dễ nhiễm khuẩn hậu sản. Ngoài ra, truyền máu điều trị chảy máu sau đẻ làm tăng các nguy cơ và biến chứng của truyền máu.
Tắc mạch ối là bệnh lý đột ngột, không có triệu chứng báo trước. Số lượng trường hợp thấp nên chưa có các bằng chưng rõ ràng về yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên, bệnh có khả năng xảy ra ở người phụ nữ bị nhau tiền đạo. Khi nhau thai bám bất thường, mạch máu ở nhau và tử cung của người mẹ cũng bất thường. Khi chuyển dạ, vỡ ối, bấm ối, mạch máu trong cơ thể người mẹ có thể vô tình bị xé rách. Nước ối vì vậy dễ đi vào tĩnh mạch, vốn tập trung nhiều ở thành tử cung, nhanh chóng đi vào tuần hoàn của thai phụ. Đây là tình trạng vô cùng đáng ngại. Tuy nhiên, ngày nay, với những phát triển của công nghệ siêu âm và khám thai, việc nhau thai bám bất thường hoàn toàn có thể phát hiện, cảnh báo và xử lý sớm, tránh để sự việc đáng tiếc xảy ra.