Cha đẻ của kỹ thuật ghép thận qua đời
(Dân trí) – Tiến sỹ Joseph E. Murray, người từng đoạt giải Nobel y học năm 1990 và cũng là người đầu tiên thực hiện một ca ghép thận thành công trên người vừa qua đời ngày 26/11 tại Boston, Mỹ.
Theo hãng tin AP, vị tiến sỹ đã qua đời ở tuổi 93 sau khi bị đột quỵ tại nhà riêng ở ngoại ô thành phố Boston, Mỹ. Ông từng được cả thế giới biết đến năm 1954 khi là người đầu tiên thực hiện thành công một ca ghép thận. Với những đóng góp của mình cho y học thế giới, năm 1990 ông đã được trao giải Nobel y học.
Tiến sỹ Joseph E. Murray – cha đẻ của kỹ thuật ghép thận
Kể từ sau ca ghép thận đầu tiên giữa một cặp anh em song sinh do ông Murray thực hiện, đến nay hàng trăm nghìn ca cấy ghép các bộ phận khác nhau trên cơ thể đã được thực hiện trên khắp thế giới. Năm 1990 ông cùng nhận giải Nobel y học với tiến sỹ E. Donnall Thomas, người đã có công trình nghiên cứu cấy ghép tủy xương.
“Giờ đây ghép thận được xem như một công việc bình thường”, Murray phát biểu với tờ New York Times sau khi giành giải Nobel. “Nhưng ca đầu tiên thì không khác nào chuyến bay vượt đại dương của Lindbergh”.
Thành công đột phá của Murray từng khiến ông chịu nhiều chỉ trích từ nhiều nhóm tôn giáo. Một số người “cho rằng chúng ta đang thực hiện công việc của Chúa và rằng không nên làm những việc này, hoặc thí nghiệm trên cơ thể người”, ông Murray phát biểu trên AP trong cuộc phỏng vấn năm 2004.
Trước đó vào đầu những năm 1950, chưa một ai có thể thực hiện ghép tạng thành công trên cơ thể người. Murray cùng các cộng sự tại bệnh viện Peter Bent Brigham ở Boston, ngày nay là viện Brigham & Women's Hospital, đã phát triển một kỹ thuật phẫu thuật mới dựa trên việc cấy ghép thận thành công trên chó.
Và tháng 12/1954, họ đã tìm được những bệnh nhân phù hợp là Richard Herrick, 23 tuổi, người đang bị suy thận giai đoạn cuối và người anh em song sinh của Richard là Ronald. Do hai người này có cùng cấu trúc gen nên ca cấy ghép tránh được trở ngại lớn nhất là sự đào thải của hệ miễn dịch người nhận.
Cặp song sinh đầu tiên được ghép thận thành công
Sau ca phẫu thuật Richard đã sống với một quả thận của Ronald và sống được thêm 8 năm, kết hôn với một y tá đồng thời có 2 con. Trong vài năm sau đó ông Murray tiếp tục thực hiện các ca cây ghép tương tự trên các cặp song sinh cùng trứng cũng như những người song sinh không cùng trứng.
Năm 1959, một bệnh nhân được ghép thận từ người anh em song sinh không cùng trứng đồng thời được xạ trị và cấy ghép tủy để hạn chế hiện tượng đào thải, đã sống được thêm 29 năm. Đến năm 1962, ông Murray cùng cộng sự đã thực hiện thành công ca ghép tạng giữa hai người hoàn toàn không có quan hệ huyết thống. Bệnh nhận 23 tuổi có tên Mel Doucette, nhận một quả thận từ một người đàn ông đã qua đời.
Những năm sau đó ông Murray tiếp tục sự nghiệp phẫu thuật thẩm mỹ và cấy ghép. Ông có một niềm tin riêng của mình. “Công việc cũng chính là cầu nguyện”, ông phát biểu trên tờ báo của đại học Havard năm 2001. “Mỗi sáng tôi thức dậy và đều tâm niệm cống hiến cho tạo hóa”.
Vị tiến sỹ y khoa bắt đầu thấy thích thú với công việc cấy ghẹp tạng khi đang phục Chiến tranh thế giới thứ hai. Khi đó ôgn làm việc tại viện Valley Forge General Hospital tại Pennsylvania và thường cấy ghép da cho các binh lính bị thương ở chiến trường.
“Sự đào thải chậm đối với da cấy ghép khiến tôi thích thú”, Murray viết trong đoạn tự truyện chuẩn bị cho lễ trao giải Nobel. “Làm sao cơ thể người phân biệt được đâu là da của mình và đâu là da người khác?”.
Và sau đó ông nhận ra rằng càng những người có quan hệ họ hàng gần gũi, quá trình đào thải càng diễn ra chậm hơn. Trong khi da của những người song sinh cùng trứng thì sẽ hoàn toàn được chấp nhận. Murray khẳng định đó chính là “lực đẩy” đối với nghiên cứu của ông về ghép tạng.
Thanh Tùng
Theo AP