Báo Mỹ nói gì về thị trường startups tại Việt Nam?

(Dân trí) - Trong chuyến hành trình Road Trip 2015, phóng viên Shara Tibken của tờ báo công nghệ nổi tiếng CNet đã có góc nhìn trực diện vào thị trường khởi nghiệp (startups) của các doanh nghiệp trẻ tại Việt Nam.

Dân trí xin lược dịch nội dung trong bài viết của Shara Tibken trên trang CNet:

Trước chuyến bay dài 19 tiếng tới Việt Nam, tôi đã tới Tổng lãnh sự Việt Nam, cách 15 phút taxi từ trụ sở của CNet tại San Francisco. Tôi đã tưởng tượng ra một cách thật thú vị để viết trong bài báo của mình, đó là một cuộc trao đổi thân tình bên ly café thật ngon với một vài người hiểu đôi chút về đất nước mà mình chuẩn bị tới.

Tuy nhiên, khi tới nơi thì trước mắt tôi là một cuộc họp rất trang trọng với khoảng 20 người gồm những quan chức cấp Bộ trong bộ vest đen, và các thành viên khởi nghiệp, cùng các nhà đầu tư đến từ Thung lũng Silicon.

Ban đầu tôi không hiểu tôi đang tham gia vào buổi gặp gỡ gì. Nhưng rồi ngay sau đó mọi thứ trở nên rõ ràng rằng tôi đã được mời tới tham dự một phiên trao đổi của các quan chức Việt Nam nhằm tìm hiểu các nhà đầu tư Mỹ đã góp sức vào các doanh nghiệp khởi nghiệp từ khắp nơi trên thế giới như thế nào. Và mục tiêu của họ là để tạo ra những bản sao giống như Thung lũng Silicon đã làm: Đó là xây dựng những Facebook hay Dropbox thế hệ tiếp theo.

Flappy Bird trở thành hiện tượng và là động lực để các startups Việt Nam nỗ lực.

Flappy Bird trở thành hiện tượng và là động lực để các startups Việt Nam nỗ lực.

“Tôi muốn đưa văn hoá từ Thung lũng Silicon vào Việt Nam”, bà Thạch Lê Anh, một nữ doanh nhân có bằng cấp và là sáng lập viên Đề án Silicon Valley Việt Nam (VSV), là một nhóm do chính phủ tài trợ nhằm gây quỹ và đóng góp cho các nhóm khởi nghiệp, cho biết. “Chúng tôi muốn mang lại một văn khoá hoàn toàn khác, một cách nghĩ, một ước mơ hoàn toàn độc lập” tới Việt Nam.

VSV là một phần trong kế hoạch lớn của Việt Nam nhằm biến đất nước này trở thành một điểm phát minh về công nghệ. Việt Nam đã trở thành công xưởng sản xuất công nghệ hàng đầu thế giới của các hãng lớn, là những doanh nghiệp đã tạo ra nhiều công ăn việc làm, và tăng số vốn đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam còn muốn nhiều hơn nữa: Vẫn còn chưa đủ khi người Việt Nam chỉ là công nhân sản xuất TV hay smartphone, mà Việt Nam còn muốn đẩy mạnh sự hình thành các nhóm startups trị giá hàng tỷ USD để có thể thay đổi thế giới và thúc đẩy nền kinh tế quốc gia.

“Chúng tôi đang bắt đầu dự án khuyến khích các nhà đầu tư để đầu tư vào startup và các doanh nghiệp ở Việt Nam”, ông Trần Văn Tùng, Thứ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ, trả lời trong một phỏng vấn. “Chúng tôi muốn phát triển một hệ sinh thái xứng đáng để các nhà đầu tư quan tâm nhằm thúc đẩy các vốn đầu tư vào Việt Nam”.

Việt Nam có thể thành công nếu đất nước này bước ra khỏi những cách làm xưa cũ. Các quy định khó khăn và khó hiểu đang hạn chế các doanh nghiệp trong nước, trong khi đó nạn tham nhũng vẫn là một thực tế đang diễn ra. Ở Việt Nam vẫn còn hiếm các nhà đầu tư bởi những người này thường dồn vốn của mình vào thị trường bất động sản thay vì hỗ trợ startups. Và, hiện cũng chưa có một hệ sinh thái tốt tại Việt Nam để cấp vốn và mở rộng công ty. Chính vì thế, rất ít doanh nghiệp Việt Nam có thể tiến ra khỏi khu vực Đông Nam Á.

Điều này không có nghĩa Việt Nam không cố gắng để đạt được.

Không chỉ là một mắt xích trong một bánh xe

Trong hơn 1 thập kỷ qua, Việt Nam đã vượt qua truyền thống là nước mạnh về may mặc và café mà đã trở thành một công xưởng lớn trong chuỗi sản xuất thiết bị điện tử. Nhiều hãng smartphone lớn đã lựa chọn Việt Nam làm nơi sản xuất smartphone, và Samsung đã và đang mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Đất nước này đang cố gắng để tìm ra cách vượt qua “chỉ là một mắt xích trong bánh xe chế tạo”.

VSV là một sáng kiến đầy tham vọng của chính phủ Việt Nam được thành lập từ giữa năm 2013. VSV giúp các doanh nghiệp gây quỹ cho các ý tưởng của họ, và giúp họ xây dựng các kế hoạch kinh doanh, kết nối các startups với các khách hàng, các nhà đầu tư tiềm năng.

Để học hỏi từ Mỹ, VSV đã cử 12 đại biểu từ Việt Nam, bao gồm Thứ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ, tham gia một khoá học trong 1 tuần tại San Francisco và New York. Nhóm các đại biểu này đã có các buổi trò chuyện với các nhà đầu tư, các doanh nghiệp lớn, và cả startups tại Mỹ để thúc đẩy niềm tin cho các doanh nghiệp Việt Nam, và cả vai trò của chính phủ trong việc giúp đỡ và tài trợ cho các startups. Chuyến đi này như là chuyến đi tiền trạm cho một chuyến tham quan khác và có thể có sự tham gia của Bộ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ.

Sau gần 2 tiếng họp tại San Francisco kết thúc, tôi bắt gặp ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ. Tôi hỏi: Tại sao chính phủ Việt Nam lại hỗ trợ startups?

“Giới trẻ Việt Nam hiện nay, họ có những giấc mơ và tham vọng lớn để thành công, để kiếm tiền từ công nghệ”, ông Quất cho biết. “Khác với cách truyền thống là làm việc trong một công ty lớn. Vì vậy, chúng tôi muốn được hỗ trợ họ”.

“Bất kỳ ai cũng có thể thành doanh nhân”.

Và lúc này ý nghĩ cuối cùng chợt đến với tôi rằng chắc chắn tôi sẽ đến Việt Nam. “Mỗi người dân Việt Nam đều là doanh nhân”, đã có hơn 1 người nói với tôi như vậy khi tôi có mặt tại Việt Nam. Kể cả ông Ted Osius, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, cũng đã cho thấy tinh thần doanh nhân tại Việt Nam cực kỳ sôi động. Hoàn toàn không khó khăn để nhận thấy khi tinh thần này hiển hiện khắp nơi trên những con phố ăn uống đông đúc ở Hà Nội hay trên những cửa hàng may mặc ở Phố cổ Hội An.

Trong vài năm qua, làn sóng startups và khởi nghiệp đã xuất hiện ở Việt Nam. Được gọi là “Hiệu ứng Flappy Bird”, một trò chơi đã từng gây bão từ 1 năm trước của tác giả Nguyễn Hà Đông. Ở thời kỳ đỉnh điểm trước khi Nguyễn Hà Đông gỡ bỏ trò chơi này ra khỏi gian hàng App Store và Google Play, chàng trai trẻ này đã thu về được 50.000 USD mỗi ngày tiền quảng cáo - một khoản tiền bằng khoảng 30 năm tiền lương của một công nhân.

“Chưa bao giờ trong lịch sử startups suốt 10 năm qua lại trở có động lực mà kỳ diệu đến thế” nhờ có sự thành công của Flappy Bird, Ah-Minh Do, biên tập viên của trang công nghệ Tech In Asia, một trong những trang web theo dõi sát sao về startups của Việt Nam.

Những doanh nhân mà tôi gặp ở Việt Nam gồm cả những người ngưỡng mộ sự thành công của Đông, và cả những người cho rằng Flappy Bird chỉ là tầm thường, và là “cái gì đó mà bất kỳ ai cũng có thể làm được”. Tuy nhiên, họ vẫn không ngừng nói về Flappy Bird. Trò chơi này đang là một ví dụ điển hình cho một sản phẩm của Việt Nam có thể tiến ra toàn cầu và nhanh chóng thành công.

Sự thành công chỉ sau một đêm như là Flappy Bird là một ngoại lệ, và sẽ khó có một doanh nghiệp Việt Nam nào sớm có được điều này.

Thiếu vốn

Thế giới startup tại Mỹ là tập hợp của những công ty đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư, các quỹ góp vốn, các doanh nhân cùng hợp tác ới nhau nhằm đảm bảo giúp các doanh nghiệp có một quỹ vốn thích hợp. Quỹ vốn tại Việt Nam chưa thể so sánh được.

“Tại thời điểm công ty IDG Venture Vietnam bắt đầu góp vốn 100 triệu USD trong năm 2004 thì nhận thức của người dân về khái niệm “venture fund” còn rất mơ hồ, và trong tiếng Việt không có từ tương ứng để giải nghĩa cho “venture fund”. Rất nhiều người nghĩ chúng tôi đang bán bảo hiểm vì từ của nó khá giống như vậy”, ông Phạm Hợp Phố - Phó chủ tịch quỹ đầu tư IDG Việt Nam, kể lại.

Các công ty đầu tư ở Việt Nam giờ đây chủ yếu tập trung cấp vốn cho các startups từ rất sớm. Nhưng điều này lại là trở lại cho các doanh nghiệp đã trưởng thành rồi nhưng vẫn cần được đầu tư. Họ không có nhiều lựa chọn như ở các nước đã phát triển.

Một phần là bởi khi đầu tư vào Việt Nam, thật khó để biết liệu có thành công hay không. Trước khi phát hành cổ phiếu ra công chúng hay được thâu tóm bởi một ông lớn thì các nhà đầu tư không biết khi nào, hoặc thậm chí là liệu họ có thu hồi được vốn đầu tư hay không.

Để tiếp cận với nhà đầu tư Mỹ không phải là dễ dàng với các doanh nghiệp không có nhiều kết nối ở Việt Nam. “Nếu tôi đầu tư vào một công ty Việt Nam thì tôi không biết bắt đầu từ đâu”, Etienne Deffarges, Chủ tịch Hiệp hội đầu tư là cựu sinh viên trường Kinh doanh Harvard, chia sẻ trong buổi họp tại VSV ở San Francisco. “Tôi đã từng đến Việt Nam nhưng tôi không biết gì về startups ở Việt Nam”.

Nâng cao hình ảnh Việt Nam

Để các nhà đầu tư Mỹ biết đến Việt Nam là một lý do lớn trong chuyến thăm của VSV, với hy vọng các nhà đầu tư sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi cấp vốn. Đó được xem như là một sự đảm bảo.

“Thực sự rất khó để tìm một nhà đầu tư và thuyết phục họ tin vào tầm nhìn của chúng tôi để đầu tư vào dự án”, Sarrie Bui, là người sẽ tham gia vào chương trình thúc đẩy sắp tới của VSV. Khi nộp đơn gia nhập Đề án Silicon Valley Việt Nam đầu năm nay, cô gái này có ý tưởng về trang web giống như trang thương mại điện tử Etsy để kết nối các nhà sản xuất, và các nghệ sỹ trong khu vực Đông Nam Á với khách hàng trên khắp thế giới. Tuy nhiên, VSV cam kết hỗ trợ cho trang web TheHandmark.com.

“Thương mại điện tử hiện là một trong những lĩnh vực được chính phủ quan tâm”, Sarrie Bui, cho biết. “VSV sẽ hỗ trợ về kiến thức, về cách biến ý tưởng thành hiện thực”.

Liệu các nhà đầu tư Mỹ có được chính phủ Việt Nam quan tâm hay không lại là một câu hỏi khác. Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài rót vào startups Việt Nam đều đến từ các nước châu Á, như Nhật Bản.

Khi nói đến sự liên kết giữa chính phủ với startups, có 2 hình thức phổ biến. Nếu như ở Mỹ chính phủ gần như không liên kết thì ở Trung quốc, chính phủ trực tiếp hỗ trợ các startups. Đầu năm nay, Trung Quốc đã thành lập một quỹ đầu tư chính phủ trị giá 6,5 tỷ USD để hỗ trợ các startups có tiềm năng ở các ngành công nghiệp mới nổi. Ở một số nước khác chính phủ cũng hỗ trợ cho các doanh nghiệp công nghệ, như Israel, Nhật và Hàn Quốc, nơi ngành công nghiệp đang bùng nổ.

Được biết Việt Nam có thể sẽ thiết lập một quỹ đầu tư của chính mình vào cuối năm nay, và Đến án Silicon Valley là vườn ươm để tiếp sức ít nhất 10.000 USD cho mỗi người tham gia. Chính phủ cũng tài trợ từ các hội thảo trong trường đại học, trong các cuộc thi startups. Tuy nhiên, hiện tại chính phủ Việt Nam vẫn đang đi theo hướng “lai”, chứ không phải là hoàn toàn hỗ trợ như ở Trung Quốc và cũng không “phủi tay” như Mỹ.

Sự tham gia của chính phủ là điều mà một số doanh nghiệp Việt Nam cho rằng là rất quan trọng. “Đề án Silicon Valley đặc biệt có ý nghĩa đối với startups”.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu có 5.000 công ty công nghệ có thể hoạt động được trong năm 2020 thì Việt Nam cần phải làm nhiều điều. Theo ước tính của trang Tech in Asia, hiện tại số startups tại Việt Nam nằm đâu đó khoảng 1.000-2.000, khó có thể đếm chính xác. Giả sử Việt Nam bơm hàng triệu USD vào lĩnh vực này thì con số 5.000 doanh nghiệp là hoàn toàn có thể đạt được. Nếu không thì đây chỉ là giấc mơ mà thôi.

Khôi Linh

(Huongsa@dantri.com.vn)

Theo Cnet