Khoa học ủng hộ “khóc đi em, khóc nữa đi em”

Nếu một ngày nào đó, người tình trên đồi cỏ non của quí vị có điều gì đó cần phải khóc, thì nhân danh sức khỏe và tình thương nhân loại, quí vị cứ thản nhiên nói: Khóc đi em, khóc nữa đi em ...

  

Khoa học ủng hộ “khóc đi em, khóc nữa đi em”


Hồi mới sang Úc định cư đầu năm 1982, tôi chứng kiến cảnh ông Malcolm Fraser, đương kim thủ tướng lúc đó, bị thất cử; xuất hiện trên ti vi để tuyên bố từ chức và cảm ơn những cảm tình viên, những người đã ủng hộ ông. Đột nhiên, ông ta vừa khóc (ra nước mắt hẳn hoi), vừa than một câu mà sau này thành mẩu quảng cáo của nhiều công ty, “Life isn't meant to be easy” [cuộc sống không dễ dàng gì]. Vì đã quen với quan niệm nam nhi chi trí, nên hình ảnh của một vị nguyên thủ quốc gia khóc trên ti vi quả là quá mới lạ. Từ đó, tôi đã có chủ tâm tìm hiểu tại sao một “người hùng” như thế mà lại rơi nước mắt.

 

Sau đó rất lâu, tôi được mời làm chuyên gia phản biện cho một bài báo có tựa đề là “Human tears and psycho-physiological therapeutic values”. Dù nhiệm vụ của tôi chỉ là phản biện phần phương pháp luận nhưng tôi đã nhận lời với chủ đích muốn học xem họ làm nghiên cứu ra sao. Tôi đã tóm gọn vài ý chính để nhớ, và bài tản mạn này là phần tóm lược đó.

 

Nói đến khóc là phải đề cập đến sản phẩm của nó: nước mắt. Nhưng cần phải phân biệt hai loại nước mắt mà tôi tạm đặt tên là “trần lệ” và “cảm lệ”. Trần lệ là loại nước mắt tiết ra do sự phơi nhiễm bụi bặm hay các vi vật (tiếng Anh gọi là reflective tears). Cảm lệ là loại nước mắt tiết ra do tác động bởi cảm tính (emotional tears). Giới nhãn khoa thường nghiên cứu trần lệ, trong khi đó cảm lệ là đối tượng nghiên cứu của giới tâm lí học. Trong bài này, tôi chỉ bàn về cảm lệ.

 

Tiếng khóc dĩ nhiên là âm thanh đầu tiên khi ta mới chào đời. Có lẽ vì hiện tượng này mà có nhà thơ đã ám chỉ đau khổ bắt đầu ngay từ lúc ta mới sinh ra:

 

Thảo nào khi mới chôn nhau

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!

 

Thực ra, trong đầu thế kỉ này, có nhiều ý kiến trong giới y khoa cho rằng trẻ em sơ sinh có khóc nhưng nước tiết ra ở mắt không phải là cảm lệ. Tuy nhiên, trong một bài báo nghiên cứu quan trọng công bố trên tập san danh tiếng Journal of the American Medical Association (JAMA) năm 1964, hai tác giả Apt và Cullen đã chứng minh rằng trẻ em khóc ra nước mắt ngay từ lúc mới sinh. Thực vậy, khóc còn là một ngôn ngữ của trẻ em chưa biết nói.

 

Đối với trẻ em, trong khi chưa nói được, khóc luôn luôn là một phương tiện liên lạc và thông tin có tác động mạnh mẽ nhất. Cha mẹ nào mà chẳng phải khốn đốn, lo chạy có cờ mỗi khi nghe con mình khóc. Theo các nhà nghiên cứu tâm lý, những thay đổi về cường độ, tiết tấu, thời gian khóc, lưu lượng nước mắt, và âm thanh khi trẻ em khóc đều mang nhiều ý nghĩa và yêu cầu khác nhau. Theo một nhà sinh lí học, trẻ em khóc vì đói khát có cường độ khóc khác với trẻ em khóc vì đau đớn cơ thể.

 

 

Đối với phụ nữ, nước mắt vẫn là một vũ khí cực kì lợi hại, vừa bảo vệ mình vừa có tính thuyết phục giới đàn ông vô cùng công hiệu. Đấng trượng phu nào mà chẳng xiêu lòng, và có khi còn quì gối ôm tay nàng như thần dân trước công chúa mỗi khi mĩ nhân rơi lệ. Mà, thực vậy, ngay cả những đàn ông có quyền thế, ngay cả các anh hùng hảo hán hét ra lửa, mửa ra khói, có trái tim sắt đá cỡ nào đi nữa, cũng phải cuối đầu trước nước mắt của đàn bà phụ nữ, cho dù là nước mắt của kẻ thù! Nhiều câu chuyện cổ tích lịch sử đã cho thấy nước mắt phụ nữ có thể làm đảo điên chế độ, thay đổi vận mệnh quốc gia như bỡn!

 

Về khóc, xã hội Đông Tây nói chung có thành kiến với đàn ông con trai, và cảm tình với phái yếu. Cái khóc của đàn bà con gái thường được đề cập tới bằng những ngôn từ có tính hoa mĩ, thông cảm, nhẹ nhàng như “nhõng nhẽo,” “tội nghiệp,” “nũng nịu,” “dễ thương,” v.v. Nhưng đàn ông con trai mà rơi lệ thì lại mang những nhãn hiệu có tính cách chê bai, mỉa mai như “mít ướt,” “yếu lòng,” “đàn bà tính” ... làm như khóc là một đặc tính của giới nữ không bằng! Thực ra, đàn ông cũng thỉnh thoảng khóc như mưa, nhưng rất ít. Tôi cho rằng cái thành kiến này đã cướp đi cái nguồn an ủi lớn nhất của đàn ông con trai, và biết đâu cũng là một trong những nguyên nhân làm cho họ, vốn được coi là phái mạnh, chết sớm hơn phái nữ, luôn được coi là phái yếu.

 

Ai cũng biết khóc là một đặc tính (trait) của con người. Thực ra, khóc là một trong những đặc điểm làm cho con người khác với thú vật vốn không biết khóc. Nhưng câu hỏi đầu tiên mà tôi nghĩ ai cũng muốn được trả lời là tại sao người ta khóc, và cái gì trong cơ thể con người sản xuất ra nước mắt.

 

Các nhà tâm lí học giải thích rằng mỗi khi bị kích thích bởi nỗi sầu khổ, buồn nản, chán chường, tuyệt vọng, giận dỗi, hay nỗi vui mừng, hân hoan cực độ, quá khả năng chịu đựng của cơ năng, cơ thể con người bèn đáp ứng với những tình thế căng thẳng này bằng cách giải thoát sinh lực. Khóc là một hình thức giải thoát này.

 

Nguyễn Bính chẳng từng viết Đêm qua nàng đã chết rồi/ nghẹn ngào tôi khóc ... Quả tôi yêu nàng là gì? Một giải thích khác có vẻ trừu tượng hơn rằng khi hệ thống nội hằng định (homeostasis) trong cơ thể bị mất cân bằng do xúc động, và trong lúc quá độ này, cơ năng không đáp ứng kịp thời bằng lời nói hay suy nghĩ, khóc làm cho hệ thống này cân bằng lại. Nói tóm lại, sự phiền muộn, vui mừng hay căng thẳng là một tín hiệu của cơ thể báo cho con người biết rằng “Hey, có vấn đề,” và con người cần phải giải quyết vấn đề này. Khóc là một trong những phương cách giải quyết vấn đề. Thật là kì diệu khi cơ thể con người có một bộ máy giải mã tự động như thế!

 

Quá trình khóc chảy nước mắt (tiếng Anh gọi là lacrimation) cũng rất ư là lí thú. Hệ thần kinh chi phối quá trình chảy nước mắt. Như ai cũng biết, thần kinh sọ của con người có 12 đôi thần kinh phát xuất từ não (đôi số I kiểm soát khứu giác; II thị giác; III vận động nhãn; IV cảm động; V sinh ba; VI vận nhãn; VII mặt; VIII sọ não; IX thiệt hầu; X phế vị; XI tủy sống; và XII hạ thiệt). Đôi dây số V và VII là bộ máy điều khiển lưu lượng và thời gian khóc của con người. Sợi thần kinh của đôi dây thần kinh số VII được cấu tạo từ nhân lệ (lacrimal nucleus).

 

Do đó, khi được “lệnh” từ hệ thần kinh, cùng một lúc, dây thần kinh số VII liền sản xuất nước mắt, và dây số V làm ra lệnh tiếp cho các cơ bắp trên khuôn mặt vận động làm thay đổi một cách rất ư là nhanh chóng và thê thảm. Sau khi tuyến lệ tiết ra nước mắt; nước mắt chảy đi qua các lỗ nhỏ (điểm lệ) ở góc mắt phía trong vào hai ống lệ. Từ đó, nước mắt sẽ chảy vào xoang mũi qua túi lệ (lacrimal) và ống mũi lệ (nasolacrimal duct). Và cuối cùng là ... khóc.

 

Tiếng Việt ta có thành ngữ “nước mắt cá sấu” để chỉ những kẻ lòng dạ thiếu thành thật. Nhưng tôi thì lại chú ý cái hiện tượng lạ là con cá sấu, sau khi nuốt chửng con mồi, khóe mắt nó lại tuôn chảy nước mắt. Nó khóc cho số phận con mồi không may mắn hay là sung sướng vì đã no bụng? Chưa ai biết được lý do sinh học đằng sau cái hiện tượng kỳ lạ này, nhưng có nghiên cứu cho thấy quá trình “khóc” của cá sấu khác với con người.

 

Theo một nghiên cứu duy nhất công bố cách đây 37 năm thì nước mắt cá sấu là do kích thích từ nước dãi (saliva), chứ không phải do kích thích của cảm tính. Nhưng nước mắt cá sấu thường là nước mắt “đơn phương”, tức là chỉ chủ yếu “khóc” có một mắt. Ngoài ra, cái khác đáng kể khác là nước mắt cá sấu được điều khiển bởi hai đôi dây thần kinh số VII và số IX. Tuy nhiên, cũng như con người, trước khi khóc, cá sấu cũng bị dây thần kinh số V làm thay đổi nét mặt.

 

Khoa học ủng hộ “khóc đi em, khóc nữa đi em”


Người ta thường hay nghĩ rằng phái nữ khóc nhiều hơn phái nam, nhưng ý nghĩ này không hoàn toàn đúng với thực tế. Theo một nghiên cứu năm 1972, ở độ tuổi còn bú sữa, trẻ em nam khóc nhiều hơn trẻ em nữ, và động cơ khóc cũng khác nhau. Trong độ tuổi này, trẻ em nam khóc thường do cảm thấy không an toàn, sợ sệt, trong khi đó động cơ làm cho trẻ em nữ khóc là đau đớn cơ thể. Nhưng khi ở độ tuổi trung và đại học thì các nàng khóc nhiều hơn, lâu hơn và cường độ mạnh hơn các chàng tới 3 lần.

 

Khi về già, phụ nữ cũng khóc nhiều và lâu hơn đàn ông, nhưng cường độ thì không khác nhau bao nhiêu. Để giải thích cho sự khác biệt này, các nhà tâm sinh lí học đo độ estradiol và so sánh với số lần khóc và dung lượng nước mắt. Họ tìm ra rằng độ tương quan giữa oestradiol và dung lượng nước mắt cao hơn giữa oestradiol và số lần khóc. Nói cách khác, phụ nữ có nhiều hormone nữ tính này khóc nhiều hơn, và mỗi lần khóc, nước mắt cũng nhiều hơn phụ nữ có ít estradiol. Vì estradiol là một hormone chính của estrogen, nên sự khám phá trên cho thấy rằng ở mức độ lâm sàng và tâm lí, estrogen có thể chi phối đến khóc.

 

Thế thì câu hỏi được đặt ra là trong nước mắt có gì, có estrogen không? Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du có nhắc đến “khóc” ít nhất là 12 lần, nhưng “nước mắt” và “lệ” chỉ 7 lần. Trong các câu có những chữ này, tôi để ý nhất câu:

 

Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê,

Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.

 

Nếu hiểu “máu” là tập hợp hormones, enzymes và hoá chất, tôi cho rằng câu thơ trên cũng thể hiện khá chính xác về sinh lí của nước mắt. Mặc dù vậy, tôi chỉ nói quá và gán ghép đấy thôi, chứ tôi vẫn nghĩ khi viết câu “Máu theo nước mắt”, chắc Tiên Điền tiên sinh không có ý tưởng gì về khoa học đâu.

 

Ai cũng biết trong nước mắt có chứa lysozyme, một enzymes cũng được thấy trong nước miếng và trứng gà. Nhưng gần đây, theo phân tích của các nhà nghiên cứu y khoa, nước mắt có vài enzymes khác và nhiều thành phần hóa học nữa. Trong các enzymes, nước mắt có chứa peroxidase và amylase, những enzymes trợ giúp bộ phận tiêu hóa của cơ thể. Trong các proteins, nước mắt có immunoglobin A, lactoferrin, và albumin. Nước cũng có chứa những khoáng sản như calcium và magnesium. Quan trọng hơn là hormones; nước mắt có khá nhiều: IL-1 alpha (khoảng 11 pg/ml), IL-1 beta (13 pg/ml), IL-6 (226 pg/ml), IL-8 (731 pg/ml). Nhưng điều lý thú là thành chất hóa chất trong “trần lệ” khác với thành chất hóa chất trong “cảm lệ”. Trong cảm lệ, tức nước mắt khóc vì cảm động, có số lượng proteins cao hơn “trần lệ” (nước mắt do bụi bặm làm ngứa mắt gây ra) tới 24%. Nhưng trong trần lệ thì không thấy có hormones IL-1 beta, mà có rất ít các hormones khác như IL-1 alpha (9.3 pg/ml), IL-6 (12 pg/ml) và IL-8 (276 pg/ml.)

 

Những hóa chất này có ảnh hưởng gì đếm tâm sinh lí? Lysozyme là một loại “dao” (enzyme) có khả năng phá vỡ bức tường tế bào và tiêu diệt vi khuẩn. Còn Lactoferrin thì có nhiệm vụ ngăn ngừa không cho vi khuẩn tăng trưởng và phòng chống nhiễm trùng. Albumin, một protein thông dụng và có nhiều nhiệm vụ khác nhau, trong đó có chức năng kiểm soát điều tiết nước, chuyên chở các chất bổ vào tế bào và chở các chất thảy ra khỏi tế bào. Phần đông các hormones interleukin (tức IL) có chức năng chính trong việc phòng chống viêm. Nhưng gần đây, một nhóm nghiên cứu y khoa ở trường Penn State đã phân tích lại khoảng 10 hormones thuộc nhóm IL và họ kết luận rằng những hormones này cũng là những “markers” cho sự xúc động căng thẳng và mầm mống của nhiều bệnh tật khác.

 

Nếu giả thuyết trên đây đúng thì nói một cách khác, trong khi khóc, cơ thể con người tự đào thải những hóa chất phiền muộn! Mà thực vậy, theo các nhà tâm lí học, về mặt tâm lí, sau khi khóc, người ta cảm thấy thoải mái hơn và có năng lực hơn để đối phó với những căng thẳng đã làm cho người ta khóc. Về hiệu quả sinh lí, khóc làm giảm nhịp tim, giảm mức độ tiêu hao oxygen, và giảm sự căng thẳng của cơ bắp. Thành ra, khóc có hiệu quả hết sức thiết thực là đem lại sự bình thường hóa của tâm sinh lí. Trong thực tế, ngày xưa trong y học cổ truyền, nước mắt được coi là một loại thuốc gây mê dân dã. Có lẽ nhận ra giá trị trị liệu này, nên trong những năm đầu thế kỷ này và ngay cả ngày nay, giới y tá thường khuyến khích bệnh nhân khóc mỗi khi đương đầu với những căn bệnh ngặt nghèo hay cần giải phẩu.

 

Nước mắt còn có thể là liều thuốc chữa những vết thương ngoại nữa. Hơn 50 năm về trước, có người đã chứng minh sự liên quan giữa số lần khóc và tốc độ phục hồi cơn bệnh; người hay khóc có thời gian lành bệnh thường nhanh hơn người không hay khóc. Hiệu quả này cũng được ghi nhận trong các chú chuột. Trong một thí nghiệm được công bố trên một tạp san nghiên cứu về sinh học thần kinh, một nhóm nghiên cứu bên Úc đã phát hiện ra nước mắt còn là một phương thuốc chữa những vết thương.

 

Họ cắt một vết nhỏ trên da một nhóm chuột; sau đó trong số phân nửa nhóm chuột này, họ nhỏ vào mắt chúng một chất kích thích làm cho chúng khóc ra nước mắt, trong khi phân nửa nhóm kia không được kích thích. Kết quả cho thấy vết thương của các chú chuột “mít ướt” được lành mau hơn các chú chuột không khóc tới 12 ngày.

 

Nhóm nghiên cứu này bèn thử nghiệm một giả thuyết đảo ngược: họ cho chất kích thích để làm cho các chú chuột khóc hết nước mắt, sau đó làm cho họ bị chút thương ngoài da. Kết quả hoàn toàn ngược lại, tức là vết thương dễ bị nhiễm trùng. Họ suy luận rằng trong nước mắt có một hormone “huyền bí” nào đó có tác dụng trị liệu các vết thương ngoài da.

 

Như vậy, khóc rất có lợi cho sức khỏe. Và nếu thuyết này đúng thì những ai không khóc hay cố tình ngăn dòng nước mắt phải có nhiều vấn đề sức khỏe. Quả vậy, theo nghiên cứu lâm sàng trong thập niên 70s, những người không khóc có nguy cơ bị những bệnh như loét, viêm kết tràng, nhức đầu, v.v. cao hơn những người hay khóc. Về mặt tâm lí, người không khóc cũng thường gặp trở ngại khi đối phó với các tình huống căng thẳng.

 

Những quan sát này cũng phù hợp với nhiều nghiên cứu cho thấy những phụ nữ số kiềm hãm lại sự giận hờn có tỉ lệ bị bệnh tim cao hơn những phụ nữ cùng tuổi nhưng chịu thổ lộ ra một cách xây dựng. Một giả thuyết đáng tin cậy để giải thích cho hiện tượng này là khi người ta ở trong một môi trường gây cấn, căng thẳng, và trong khi chưa hay không hóa giải được, trung tâm thần kinh liên quan tới cảm tính dần dần bị “hư hỏng”. Và khi trung tâm này bị hỏng, nó bèn gửi đi những tín hiệu sai lầm cho các cơ quan vận hành điều tiết trong cơ thể, và gây ra rối loạn trong cơ thể, tức là bệnh tật. Nếu xem khóc và nước mắt là một “marker” của sự căng thẳng tâm thần, thì có thể nói một cách khác rằng bệnh tật không những là hậu quả của những rối loạn hệ thống nội tiết trong cơ thể, mà còn bị chi phối bởi sự hệ thống tâm thần.

 

Nhưng trong nhiều thập niên qua, có thể nói thế giới y khoa chính thống, đặc biệt là ở phương Tây, đã tập trung quá nhiều năng lực vào việc nghiên cứu phần thể (hay “soma”), mà bỏ qua một phần khác cũng không kém phần quan trọng là phần tâm (hay “psycho”) của con người. Ngày nay, với tiến bộ và giao lưu giữa các bộ môn nghiên cứu như nội tiết, di truyền học, tâm lí học, và cơ thể học đã làm thay đổi nhiều quan niệm về y khoa và cách chữa trị một cách có hệ thống. Sự thành công của chữa trị ngày nay không chỉ đơn thuần phản ảnh qua vài con số thống kê về tỉ lệ lành bệnh, mà còn là chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Sứ mệnh của người thầy thuốc hiện đại, do vậy, không những chỉ đơn thuần chinh phục con bệnh mà còn nâng cao sự an lành của bệnh nhân.

 

Có người đã cho rằng ở các nước phương Tây, những nơi mà nhà ai nấy ở và cửa đóng kín mít, con người sống trong một môi trường tương đối cô lập và thiếu cái mà tôi gọi là “human interaction”, tức là sự tương tác, có qua có lại giữa con người. Mặt khác, trong mỗi con người bình thường (không phải siêu nhân) đều có một mức độ giới hạn trong sự chịu đựng những gì con người có thể cảm và nhận. Đi quá hay cố gắng đi quá mức độ giới hạn này cũng là đồng nghĩa với tự chuốc lấy đau khổ, phiền muộn. Do đó, thiếu sự “có qua có lại” không những dẫn đến tình trạng bị đè nén, bế tắc những xúc cảm mà còn gây ra bệnh tật.

 

Thành thử, ngược lại với những quan niệm cổ xưa ở Á Châu ta cho nước mắt là biểu hiện của sự yếu đuối, ngày nay nước mắt được xem có nhiều công dụng hết sức thực tiễn và thiết thực. Vậy thì, mỗi khi thất tình, có chuyện buồn, hay đau đớn [cả về tâm thần lẫn thể xác] quá sức chịu đựng thì các bạn hãy bỏ ngoài tai bài nhạc Đừng khóc nghe em, mà cứ khóc, khóc thoải mái. Và nếu một ngày nào đó, người tình trên đồi cỏ non của quí vị có điều gì đó cần phải khóc, thì nhân danh sức khỏe và tình thương nhân loại, quí vị cứ thản nhiên nói:

 

Khóc đi em, khóc nữa đi em ...

Hoặc, cũng có thể nói rằng:

Khóc đi anh, khóc nữa đi anh...

 

Theo GS Nguyễn Văn Tuấn

Báo Đất Việt