1. Dòng sự kiện:
  2. Viện Y dược học dân tộc TPHCM

Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh: “Việt Nam sẽ làm được!”

Sự khẳng định này là ý chí chung của Hội thảo Quốc gia về mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) diễn ra tại Hà Nội ngày 3/11.

Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh: “Việt Nam sẽ làm được!”

Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân chủ trì Hội thảo Quốc gia về mất cân bằng giới tính khi sinh tại Hà Nội. Ảnh: Chí Cường

 

Phụ nữ sẽ bị “giành giật”

 

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến cho biết: “Từ năm 2006 đến nay, tỉ số này luôn trong xu hướng tăng và tăng mạnh; có năm tăng tới 1 điểm phần trăm - tức là gấp 10 lần so với trước đây và theo điều tra biến động dân số 1/4/2012, tỉ số này đã cao tới mức nghiêm trọng: 112,3 trẻ trai/100 trẻ gái.

 

Theo Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến, nếu không có sự can thiệp tích cực nhằm giảm tốc độ gia tăng MCBGTKS thì tỉ số GTKS của nước ta có thể tiếp tục tăng lên khoảng 125 vào năm 2020 và tiếp tục duy trì ở mức này cho đến năm 2050. Thứ trưởng nhấn mạnh: Tình trạng này sẽ dẫn đến những hệ lụy khó lường về xã hội, an ninh và trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của cá nhân, gia đình và là tai họa đối với sự phát triển bền vững của đất nước, dân tộc. 

 

“Chúng tôi mong Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tiếp tục đồng hành, giúp đỡ chúng tôi cả về kỹ thuật và nguồn lực để thực hiện công tác DS-KHHGĐ nói chung và giải quyết vấn đề MCBGTKS trong thời gian tới”, TS Dương Quốc Trọng nói.

Điều đáng lo ngại là tình trạng MCBGTSKS của Việt Nam đang diễn ra trong bối cảnh nhiều nước trong khu vực đã rơi vào tình trạng này và đang phải đối mặt với hệ lụy của nó. Hằng năm, các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc phải “nhập khẩu” cô dâu mà vẫn không đáp ứng được số nam giới đến tuổi trưởng thành có nhu cầu kết hôn. Phần lớn các phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài là cô dâu của các nước nói trên. Điều đó cho thấy, nếu tình trạng MCBGTKS không được khống chế, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những hậu quả nặng nề hơn nhiều so với các nước có tình trạng tương tự.

 

“Một số hậu quả có thể thấy trước được là việc gia tăng quy mô các hoạt động bắt cóc và buôn bán phụ nữ, buôn bán trẻ em gái. Phụ nữ sẽ bị “giành giật” và sẽ phải kết hôn sớm hơn”, TS Dương Quốc Trọng, Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ nói.

 

Thách thức gay gắt

 

Từ thực trạng và thách thức nói trên, các đại biểu đến từ các bộ, ban, ngành Trung ương, đến từ 63 tỉnh, thành phố trong cả nước và các đại biểu quốc tế đều có chung một nhận định: Sự MCBGTKS ở Việt Nam có nguyên nhân cơ bản là do sự yêu thích con trai và có cơ hội tiếp cận để thực hiện nguyện vọng đó.

 

TS Christophe Guilmoto - chuyên gia quốc tế về MCBGTKS của UNFPA đánh giá: Dù MCBGTKS ở Việt Nam diễn ra muộn hơn nhưng so sánh với các nước láng giềng như: Nhật Bản, Thái Lan, Philippines thì tỉ số GTKS Việt Nam tăng trong khi các nước trên không tăng. TS Guilmoto cũng cho rằng tỉ lệ sinh ngày càng giảm, quy mô gia đình ngày càng nhỏ thì nhu cầu mong muốn có con trai càng mạnh mẽ. “Vấn đề đặt ra là có ít con song đứa con đó nhất định phải là con trai. Đây chính là “kẽ hở” cho công nghệ lựa chọn giới tính thai nhi phát triển”.

 

Theo bà Kiran - Bhatia, Cố vấn kỹ thuật Văn phòng UNFPA Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, phải thực hiện nghiêm về loại bỏ việc lựa chọn giới tính thông qua hướng dẫn rõ ràng và chiến dịch truyền thông cụ thể, nỗ lực giảm nạn phá thai. “Cơ quan đại diện của Liên Hợp Quốc ở Việt Nam luôn sẵn sàng tiếp tục chung tay với Chính phủ, các đối tác xã hội dân sự và các tổ chức phát triển khác để nâng cao vị thế của phụ nữ và thiết lập sự cộng tác Nam - Nam và hợp tác ba bên để củng cố nỗ lực giải quyết vấn đề lựa chọn giới tính”, bà Mandeep K. O'Brien, Quyền Trưởng đại diện UNFPA khẳng định.

Đồng quan điểm với ý kiến này, bà Nguyễn Thị Khá, Ủy viên Thường trực Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, cho hay: Nhiều người đã lợi dụng công nghệ để lựa chọn giới tính thai nhi, và sẽ loại bỏ nếu biết đó là thai nhi gái. Điều đáng nói ở đây là dù ở Việt Nam việc chẩn đoán giới tính thai nhi bị nghiêm cấm nhưng trên 90% số phụ nữ mang thai biết được giới tính của con mình trước khi sinh. “Nhiều người làm dịch vụ sẵn sàng “lách luật” như việc dùng “từ lóng”: “Thai nhi này giống mẹ”, “mạnh mẽ”, “dịu dàng” để thông báo về giới tính của thai nhi”, bà Khá nói.

 

Nói về sự khó khăn của việc giảm thiểu tình trạng MCBGTKS, bà Châu Tuyết Ngọc - Phó Giám đốc Sở Y tế, Chi cục trưởng Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Bạc Liêu cho biết, nhiều phụ nữ bị áp lực bởi mong muốn của chồng và gia đình chồng mong muốn có con trai. Nhiều người trong số họ chiều theo ý thích của gia đình nhà chồng, nếu ai sinh con gái đầu lòng thì thấy rất “hoang mang” và tìm cách sinh cho được con trai vào những lần sinh sau...

 

Biện pháp đồng bộ

 

Trước các ý kiến tại Hội thảo, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh: Động cơ phải có con trai đã tồn tại trong tâm lý của người châu Á nói chung và người Việt Nam nói riêng hàng nghìn năm nay. Tuy nhiên, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, cơ hội tiếp cận nó ngày càng dễ dàng và thuận lợi của người dân; việc thực thi luật pháp trong việc lựa chọn giới tính thai nhi chưa nghiêm,… đã khiến tỉ số GTKS ngày càng tăng.

 

Phó Thủ tướng cũng khẳng định việc giảm thiểu mất cân bằng GTKS là một quá trình phải được thực thi bằng nhiều biện pháp đồng bộ. Bà Trần Thanh Bình - Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đề xuất giải pháp giáo dục gia đình về chức năng, trách nhiệm chung của cha mẹ vì lợi ích con cái, không phân biệt đối xử với con gái - con trai; truyền thông cho mọi đối tượng, trong đó tập trung vào những cặp vợ chồng trẻ, vợ chồng đã có 2 con một bề là con gái. Còn ông Lê Duy Sớm - Phó Vụ trưởng Vụ Các vấn đề xã hội, Ban Tuyên giáo TƯ cho rằng, để giảm thiểu được tình trạng MCBGTKS, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên, các nhà lãnh đạo cộng đồng cần làm gương chấp hành tốt trong gia đình mình, rồi dần thuyết phục, vận động người thân, dòng họ và mọi người dân trong cộng đồng làm theo.

 

Trong các nhóm giải pháp, TS Dương Quốc Trọng nhấn mạnh đến giải pháp tuyên truyền vận động, giáo dục chuyển đổi hành vi, đồng thời phải có chính sách ưu tiên nữ. Bên cạnh đó, việc tăng cường cam kết về mặt chính trị phải được đặt lên hàng đầu. TS Trọng cho rằng, một mình ngành Y tế, Dân số không thể đạt được sự thành công trong việc giảm thiểu MCBGTKS nếu không có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.

 

TS Dương Quốc Trọng cũng cho hay, sau Hội thảo này Bộ Y tế sẽ xây dựng một báo cáo để trình Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Chính phủ, Quốc hội báo cáo về kết quả của Hội nghị quốc gia về MCBGTKS cùng các khuyến nghị. Trong đó có một khuyến nghị rất quan trọng mà Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã đề xuất: Đó là cần xây dựng một Chỉ thị của Ban Bí thư về vấn đề này. Trên cơ sở đó, Bộ Y tế sẽ làm việc với Ban Tuyên giáo Trung ương và các bộ, ngành Trung ương như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ LĐ, TB&XH, Bộ Giáo dục & Đào tạo, Trung ương Đoàn TNCSHCM, Hội LHPNVN, Hội Nông dân… để cùng nhau giải quyết các vấn đề liên quan.
 

 Cần có chỉ thị của Ban Bí thư về vấn đề này

 

Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh như vậy tại Hội thảo. Phó Thủ tướng cho rằng sẽ không thể giảm nhanh MCBGTKS nhưng chúng ta vẫn phải làm. Bên cạnh những nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác truyền thông vận động cần được đẩy mạnh; từng bước vận động người dân giảm tư tưởng "trọng nam, khinh nữ"; giáo dục con cái có trách nhiệm với cha mẹ không phân biệt con trai, con gái.

 

 

Phó Thủ tướng cũng chỉ ra trong số các giải pháp cần tăng cường lực lượng cộng tác viên cơ sở, ngoài việc tăng quy mô, cần thiết phải duy trì và tập trung vào chất lượng. Ngành Y tế cần bàn với ngành Giáo dục đưa giáo dục giới tính vào các chương trình chính thức để ngay từ khi còn ngồi ghế nhà trường, các em sẽ có những nhìn nhận đúng đắn hơn về giới và bình đẳng giới. Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Y tế tiếp thu các ý kiến đóng góp của các bộ, ngành, đoàn thể để có kế hoạch và giải pháp cho vấn đề giảm thiểu MCBGTKS xây dựng kế hoạch cho năm 2013 và những năm tiếp theo.

 

Theo Hà Thư

Gia đình & Xã hội