Dấu hiệu phổ biến của ung thư xương

Hà An

(Dân trí) - Ung thư xương là bệnh có tỷ lệ tử vong cao, đặc biệt ở những người trẻ. Đau là triệu chứng phổ biến nhất của bệnh.

Ung thư xương là tổn thương ác tính (ung thư) xương gây phá hủy mô xương bình thường, không phải tất cả các khối u xương đều ác tính. Thực tế, u xương lành tính phổ biến hơn so với u xương ác tính.

Cả hai khối u xương ác tính và lành tính có thể phát triển từ mô xương khỏe mạnh, nhưng khối u lành tính không lây lan, không phá hủy mô xương và hiếm khi trở thành mối đe dọa cuộc sống.

Dấu hiệu phổ biến của ung thư xương - 1

Ung thư xương không có nguyên nhân rõ ràng. Nó được xếp vào nhóm ung thư khó phát hiện sớm. 

Ung thư xương nguyên phát hay gặp ở lứa tuổi từ 1-12 tuổi, chiếm 0,2 % trong tất cả các loại ung thư nguyên phát, đứng thứ 6 trong tất cả các loại ung thư nguyên phát ở trẻ em. 

Ung thư xương có tỷ lệ tử vong cao, đặc biệt ở những người trẻ. Tại Mỹ, tỷ lệ ung thư xương nguyên phát được chẩn đoán hàng năm khoảng 3300 ca, trong đó phần nửa số ca tử vong trong năm đầu tiên sau khi phát hiện bệnh. 

Trong ung thư xương nguyên phát thì ung thư xương thể nội tủy gặp phổ biến. 50% các tổn thương xuất hiện vùng quanh gối (đầu dưới xương đùi, đầu trên xương chày) của trẻ em và người trẻ. Ngoài ra tổn thương có thể gặp ở các vị trí khác như đầu trên xương đùi, đầu trên xương cánh tay, xương chậu. 90% ung thư xương thể nội tủy có độ ác tính cao, phá hủy thành xương, xâm lấn phần mềm tạo thành khối ở phần mềm lân cận. Tỷ lệ di căn phổi khoảng 10-20%.

Có những xét nghiệm có thể được sử dụng để phát hiện sớm một số bệnh ung thư (chẳng hạn như ung thư vú, cổ tử cung, đại trực tràng và da), trước khi chúng gây ra các triệu chứng. Tuy nhiên, đến nay không có xét nghiệm đặc biệt nào giúp phát hiện sớm ung thư xương. Cách tốt nhất để phát hiện sớm bệnh ung thư này là đi khám ngay nếu bạn có các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh này.

Triệu chứng của ung thư xương

Theo TS.BS Dương Đình Toàn, Phó trưởng khoa khám Xương, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức (Hà Nội), đau là triệu chứng phổ biến khiến người bệnh quan tâm đến bệnh và đi khám. Ban đầu đau không hằng định, có thể tăng, cũng có thể giảm hoặc mất đi theo thời gian, về sau đau âm ỉ liên tục, đau tăng nhiều về đêm và không đáp ứng với các thuốc giảm đau thông thường (NSAID). Đau có thể liên quan hoặc không liên quan đến vận động.

Bên cạnh đó, người bệnh có thể tự sờ thấy khối u. Tùy vào đặc điểm, nguồn gốc, khả năng xâm lấn phần mềm của các khối u, người bệnh có thể tự sờ thấy một hoặc nhiều khối u trên một vùng chi thể hoặc tại nhiều vị trí khác nhau.

Khối u căng, cứng, cố định vào xương. Bề mặt khối u ấm nhưng không phải là viêm. Nếu để muộn, khối càng ngày càng to nhanh, da căng bóng, có tuần hoàn bàng hệ. Khối xuất hiện vùng khớp gây hạn chế biên độ vận động khớp.

Trong một số trường hợp phát hiện bệnh vì gãy xương tự nhiên. Người bệnh cũng có thể có một số triệu chứng thay đổi toàn thân như: sốt, gầy sút cân; thay đổi màu sắc da, nổi hạch bạch huyết.