Ca Covid-19 tăng nhanh: Điểm then chốt để hệ thống điều trị không quá tải
(Dân trí) - Trong bối cảnh dịch diễn biến ngày càng phức tạp, số ca bệnh tăng nhanh, việc đảm bảo hệ thống y tế không bị quá tải bằng các chiến lược phù hợp có ý nghĩa rất quan trọng.
Tỷ lệ bệnh nhân Covid-19 tử vong ở nước ta hiện vẫn nằm ở mức thấp so với thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh làn sóng dịch thứ 4 diễn biến phức tạp, số ca bệnh tăng nhanh và đã vượt mốc 23.000 ca, việc giữ vững thành quả này đặt ra nhiều thách thức cho tuyến đầu.
Là người đang trực tiếp tham gia công tác điều trị bệnh nhân Covid-19, BSCKII Nguyễn Trung Cấp, Phó Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, nhận định, việc kiểm soát F0 ngay từ đầu, sàng lọc bệnh nhân Covid-19 theo tình trạng bệnh và tăng cường năng lực Hồi sức tích cực là những yếu tố then chốt để đảm bảo hệ thống y tế không bị quá tải, cũng như giảm nguy cơ tử vong cho bệnh nhân, trong bối cảnh dịch bệnh ngày càng diễn biến phức tạp.
- Có nhiều ý kiến cho rằng, tỷ lệ bệnh nhân Covid-19 không có triệu chứng, triệu chứng nhẹ là khá cao và những bệnh nhân này sẽ tự khỏi nên có thể cho cách ly, theo dõi sức khỏe tại nhà, chỉ cần tập trung điều trị các bệnh nhân nặng để tiết kiệm nguồn lực y tế. Ông đánh giá thế nào về quan điểm này?
BSCKII Nguyễn Trung Cấp: Cần biết rằng, các bệnh nhân khi mới mắc Covid-19 có thể có các triệu chứng khởi phát hoặc không, nhưng đa số sau 7 ngày sẽ sang giai đoạn hồi phục. Nhưng cũng có nhiều bệnh nhân Covid-19 khi khởi phát có thể không có triệu chứng gì đáng kể, nhưng sau 7-8 ngày lại có biểu hiện rất nặng hoặc thậm chí tử vong.
Do vậy tại thời điểm bệnh nhân mới nhập viện không thể biết trước bệnh nhân nào sẽ là nặng hay nhẹ mà chỉ sau ngày thứ 8-9 mới xác định được ai diễn biến thành bệnh nhân nặng, ai là người nhẹ.
- Vậy hệ thống y tế phải kiểm soát thế nào để nhóm bệnh nhân không có triệu chứng/triệu chứng nhẹ không diễn biến nặng, trong khi vẫn tiết kiệm được nguồn lực để tập trung điều trị ca bệnh nặng, thưa ông?
Về công tác tổ chức, chúng tôi cho rằng phải coi những bệnh nhân Covid-19 trong tuần đầu kể từ khi phát hiện bệnh là nhóm có nguy cơ diễn biến nặng, cần theo dõi sát.
Bất kỳ thời điểm nào trong giai đoạn này, đặc biệt thời điểm ngày thứ 7-8 mà sàng lọc, phát hiện các dấu hiệu nguy cơ hoặc biểu hiện nặng thì cần chuyển bệnh nhân sang khu có thể điều trị sớm theo cơ chế bệnh sinh để ngăn ngừa xu hướng diễn biến nặng hoặc hồi sức kịp thời nếu tình trạng bệnh xấu đi.
Chỉ những bệnh nhân sau hơn một tuần mà không có dấu hiệu dự báo tiến triển nặng trên lâm sàng và xét nghiệm thì mới được coi là bệnh nhân nhẹ và chuyển sang khu cách ly chờ hồi phục để giảm áp lực cho bệnh viện.
Tại những địa bàn đã xảy ra dịch như Hải Dương hoặc Bắc Ninh trước đây, chúng tôi áp dụng mô hình điều trị gọi là tháp 3 tầng. Có thể coi hệ thống điều trị như tòa tháp càng thấp thì số bệnh nhân càng nhiều nhưng nhân viên y tế ít, càng lên cao số bệnh nhân giảm đi nhưng y bác sĩ và trang bị kỹ thuật càng tập trung. Bệnh nhân Covid-19 mới phát hiện được nhập vào tầng 2 của tháp (Khu vực có khả năng theo dõi và sàng lọc dấu hiệu nặng). Nếu sau 7-8 ngày không có biểu hiện gì nặng thì được chuyển xuống tầng một của tháp (Khu vực cách ly chờ ra viện), còn trong bất kỳ thời điểm nào phát hiện được xu hướng diễn biến nặng thì bệnh nhân cần chuyển lên tầng 3 của tháp điều trị (khu vực có thể điều trị và hồi sức tích cực).
- Từ thực tế lâm sàng, theo ông những khó khăn nào đang được đặt ra trong việc sàng lọc và theo dõi diễn biến của các bệnh nhân không có triệu chứng?
Khó khăn lớn nhất hiện tại là nhiều thầy thuốc còn nhầm lẫn, cho rằng bệnh nhân nhập viện không có triệu chứng, hoặc chỉ có triệu chứng nhẹ nghĩa là họ là bệnh nhân nhẹ, do đó xếp họ vào khu vực không được theo dõi sát và vì vậy không phát hiện được các diễn biến nặng kịp thời.
Khó khăn thứ 2 là để nhận biết sớm các dấu hiệu cảnh báo nguy cơ diễn biến nặng đòi hỏi phải có những xét nghiệm đánh giá về đông máu và miễn dịch, và biết cách phiên giải phù hợp kết quả xét nghiệm này. Do bệnh Covid-19 là bệnh lý mới xuất hiện, nên nhiều nơi chưa thực hiện được các xét nghiệm này và các thầy thuốc chưa có kinh nghiệm nhận định, phiên giải các xét nghiệm này. Vì vậy phải đợi đến khi bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng nặng như khó thở, sốc mới phát hiện ra sẽ làm việc điều trị bệnh nhân kém hiệu quả.
Khó khăn thứ 3 là ngay cả những bệnh nhân có tổn thương phổi nặng và suy hô hấp, thì nhiều bệnh nhân Covid-19 cũng không có biểu hiện khó thở. Tình trạng này được gọi là "Thiếu oxy yên lặng". Nếu thầy thuốc không có kinh nghiệm tốt và không có đủ thiết bị đo độ bão hòa oxy máu có thể bỏ sót và dẫn đến bệnh nhân nguy kịch hoặc tử vong.
Theo ông những nguyên nhân nào giúp tỷ lệ bệnh nhân Covid-19 tử vong ở nước ta vẫn nằm mức thấp so với thế giới?
Về nguyên nhân khách quan, từ trước đến nay, các làn sóng dịch Covid-19 ở Việt nam chủ yếu xảy ra ở các khu công nghiệp, nên người mắc chủ yếu là công nhân trẻ, ít bệnh nền, do vậy số tử vong ít. Thực tế, một số đợt dịch xảy ra trong bệnh viện, trên những nhóm bệnh nhân nặng thì chúng ta cũng phải chứng kiến tỷ lệ tử vong khá cao.
Bên cạnh nguyên nhân khách quan, cần phải xét đến việc chúng ta đã rất nỗ lực kiểm soát dịch bệnh để số bệnh nhân không vượt quá khả năng đáp ứng của hệ thống điều trị, các bệnh nhân F0 đều được theo dõi sát ngay từ đầu nên ít trường hợp diễn biến nặng vì phát hiện muộn mà trở thành nguy kịch.
Đây là yếu tố rất quan trọng vì sẽ giúp khống chế được số bệnh nhân nặng không vượt quá khả năng chăm sóc của hệ thống hồi sức. Nhờ vậy chúng ta chưa từng để xảy ra tình trạng thiếu máy thở, thiếu oxy hay nhân viên y tế kiệt sức không chăm sóc nổi bệnh nhân. Do vậy chúng ta đã giữ được tỷ lệ tử vong chung do Covid-19 khá thấp so với nhiều nước trên thế giới.
Đợt dịch này xảy ra ở diện rộng với số bệnh nhân mắc bệnh nhiều hơn, đòi hỏi hệ thống điều trị phải nỗ lực nhiều hơn nữa mới giữ được thành quả đó.
- Đơn vị Hồi sức tích cực được xem là chốt chặn quan trọng để giành lại sự sống cho bệnh nhân Covid-19, cũng như giảm tỷ lệ tử vong do đại dịch. Ông đánh giá như thế nào về năng lực của hệ thống hồi sức tại Việt Nam hiện nay?
Chuyên ngành Hồi sức cấp cứu vốn là chuyên ngành khó, đòi hỏi đào tạo kỹ càng, công việc vất vả và thu nhập thấp trong ngành y.
Bởi vậy từ nhiều năm qua khả năng thu hút thầy thuốc theo chuyên ngành Hồi sức không nhiều. Mặc dù được Bộ y tế quan tâm từ nhiều năm qua, nhưng trên thực tế các trang bị hồi sức cấp cứu như máy thở, máy lọc máu, ECMO rất đắt tiền, lại không sinh lợi nhuận như những loại máy khác như máy siêu âm, can thiệp mạch,... nên nhiều bệnh viện, nhiều địa phương còn chưa ưu tiên đầu tư.
Có thể nói trừ 3 trung tâm ở 3 miền như Hà Nội, TPHCM, Huế-Đà Nẵng và một vài tỉnh lớn có đội ngũ thầy thuốc và trang bị Hồi sức cấp cứu tương đối mạnh, còn lại ở nhiều tỉnh thì năng lực về Hồi sức còn hạn chế. Thực tế khi dịch bệnh bùng phát thì rất nhiều tỉnh đã cần phải tập trung hỗ trợ từ Trung ương và các tỉnh bạn. Do vậy nếu dịch bùng phát trên diện rộng, khi không còn nhận được sự hỗ trợ nhiều thì có thể một số địa phương sẽ gặp khó khăn trong công tác điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng.
Được biết, hiện tại ông cũng đang chi viện cho tỉnh Đồng Tháp, theo chỉ đạo của Bộ Y tế. Ông có thể chia sẻ thêm về nhiệm vụ của mình?
Hiện nay tôi đang hỗ trợ công tác điều trị tại tỉnh Đồng Tháp. Số bệnh nhân mắc Covid-19 của tỉnh mới ở mức trên 400 bệnh nhân. Điều không may là dịch bùng phát tại Khoa Nội của Bệnh viện Sa Đéc là nơi điều trị các bệnh nhân có sẵn nhiều bệnh nặng như tiểu đường, suy thận giai đoạn cuối, thiếu máu cơ tim, ung thư… nên khi nhiễm Covid-19 giống giọt nước tràn ly dẫn đến nhiều bệnh nhân tử vong.
Những trường hợp còn lại các thầy thuốc đang nỗ lực hết sức để cứu chữa. Với những bệnh nhân mắc mới tại cộng đồng, chúng tôi đang áp dụng mô hình điều trị theo hướng dẫn của Bộ y tế và những kinh nghiệm đã có để giảm tỷ lệ diễn biến nặng.
Tại Đồng Tháp, chúng tôi đã xây dựng phiên chế các đội điều trị, tổ chức tập huấn về hướng dẫn chẩn đoán, điều trị của Bộ Y tế và chia sẻ kinh nghiệm điều trị, đã thành lập các nhóm thầy thuốc điều trị Covid-19 để thường xuyên trao đổi, hội chẩn và hướng dẫn xử trí từng tình huống bệnh nhân cũng như nhóm chuyên gia trực tiếp xuống hỗ trợ xử trí những ca bệnh khó. Tuy nhiên ở một số cơ sở điều trị còn thiếu các vật tư trang thiết bị và nhân lực để triển khai các xét nghiệm và kỹ thuật hồi sức cần thiết. Chúng tôi đang cùng Sở Y tế và các Bệnh viện đang nỗ lực giải quyết những khó khăn này. Những gì vượt quá khả năng đáp ứng của địa phương chúng tôi đã báo cáo Bộ Y tế để xin hỗ trợ.
Xin cảm ơn ông!