Trẻ có thể tổn thương não vì thói quen nhiều người lớn mắc phải

Hồng Hải

(Dân trí) - Bé 2 tháng tuổi được gia đình đưa vào Bệnh viện Nhi Trung ương cấp cứu trong tình trạng li bì, ngừng thở, co giật. Trước đó 3 ngày, trẻ thường được bế đung đưa để dỗ do hay quấy khóc.

Tổn thương não, nguy cơ di chứng lâu dài

ThS.BS Ngô Tiến Đông, Khoa Điều trị tích cực Nội khoa, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, mới đây tiếp nhận bệnh nhi bị tổn thương não do hội chứng rung lắc mạnh.

Trẻ được đưa vào viện cấp cứu trong tình trạng tăng trương lực cơ liên tục, tím môi, thóp trước căng phồng, co giật, có dấu hiệu tăng áp lực nội sọ, nguy cơ tử vong cao.

Trẻ có thể tổn thương não vì thói quen nhiều người lớn mắc phải - 1

ThS.BS Ngô Tiến Đông đang thăm khám cho bệnh nhi (Ảnh: T.T).

Qua khai thác, trẻ không bị té ngã, chấn thương, chưa co giật lần nào. Sau thăm khám lâm sàng và siêu âm thóp, các bác sĩ nghi ngờ trẻ tổn thương thần kinh.

Kết quả chụp cộng hưởng từ (MRI) sọ não, soi đáy mắt cho thấy trẻ tụ máu dưới nhện lều tiểu não hai bên và liềm đại não, phù não lan tỏa các bán cầu não 2 bên, kèm xuất huyết võng mạc, phù gai thị, nghi do hội chứng rung lắc.

Gia đình bệnh nhi cho biết trước đó 3 ngày, trẻ thường quấy khóc, nên khi dỗ trẻ, người lớn đung đưa mạnh. Sau đó trẻ bú ít, kém linh hoạt, gia đình đưa trẻ vào bệnh viện cấp cứu.

Tại Khoa Điều trị tích cực Nội khoa, bệnh nhi ngay lập tức được cho thở máy, cắt cơn co giật và điều trị tăng áp lực nội sọ; đồng thời, tối ưu hóa tất cả các cơ quan hô hấp, tuần hoàn bằng cách sử dụng thuốc trợ tim, vận mạch, kiểm soát rối loạn điện giải, sốt, nhiễm trùng.

Sau 7 ngày điều trị, trẻ cai được máy thở, dấu hiệu sinh tồn ổn định, tuy nhiên vẫn còn di chứng tăng trương lực cơ, giảm ý thức, nguy cơ cao sẽ để lại di chứng thần kinh lâu dài, gây ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển não bộ, tương tác xã hội của trẻ, cũng như chất lượng cuộc sống của trẻ và gia đình.

Rung lắc ở trẻ nhỏ: Nguy hiểm

BS Đông cho biết, chấn thương não nghiêm trọng xảy ra ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ có nguy cơ xảy ra khi bị rung lắc mạnh. Hội chứng này xảy ra phổ biến ở trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, đặc biệt trong giai đoạn từ 2 - 4 tháng tuổi, bởi đó là thời điểm trẻ có xu hướng quấy khóc thường xuyên và kéo dài. Tuy nhiên, trẻ dưới 5 tuổi cũng có thể bị ảnh hưởng.

Trẻ có thể tổn thương não vì thói quen nhiều người lớn mắc phải - 2

Não trẻ bị va đập vào bề mặt cứng bên trong hộp sọ khi bị rung lắc (Ảnh minh họa: Getty).

Theo thống kê của Trung tâm quốc gia về Hội chứng rung lắc trẻ em tại Mỹ ước tính: Ở Mỹ có 1000-1300 trường hợp được ghi nhận mỗi năm. Trong các trường hợp ghi nhận được, 1/4 số trẻ tử vong, 80% trẻ sống sót bị tổn thương vĩnh viễn như bại não, liệt, mất thị lực, thiểu năng trí tuệ, động kinh.

"Các thói quen bế con rung lắc để dỗ trẻ khóc, thói quen đưa võng, lắc nôi ru trẻ ngủ, hoặc những động tác làm thay đổi đột ngột tư thế như bế trẻ lên cao, bế thốc dậy, tung cao trẻ… rất nguy hiểm. Trẻ có thể gặp nguy hiểm dù chỉ với 5 giây rung lắc", BS Đông cảnh báo.

Theo các chuyên gia, ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, trọng lượng đầu chiếm khoảng 10 - 15% trọng lượng cơ thể. Ở độ tuổi này, trẻ có cơ cổ rất yếu không đủ sức nâng đỡ đầu vốn có kích thước tương đối lớn, não bộ chưa phát triển nhiều, nằm "trôi nổi" trong môi trường dịch não tủy bao bọc xung quanh.

Rung lắc mạnh, gây ra sự tăng - giảm tốc nhanh chóng của não, tác động va đập vào bề mặt cứng bên trong hộp sọ, làm tổn thương não và các mạch máu não, phù não và tăng áp lực nội sọ.

Theo BS Đông, có thể còn nhiều trường hợp khác trẻ bị tổn thương do Hội chứng rung lắc mà chúng ta bỏ sót. "Có nhiều trẻ chỉ biểu hiện quấy khóc, li bì 1-2 ngày rồi vẫn ăn ngủ bình thường, gia đình sẽ bỏ qua giai đoạn đó. Sau này lớn lên, trẻ mới dần có biểu hiện của bại não, thị lực kém, chậm phát triển, lúc đó rất khó biết được căn nguyên và cũng rất muộn để có thể can thiệp, điều trị được", BS Đông nói.

Các biểu hiện của hội chứng rung lắc rất đa dạng và thường khó phát hiện, dễ nhầm lẫn với các bệnh khác.

Thời gian khởi phát có thể là ngay sau khi rung lắc hoặc sau một khoảng thời gian: trẻ quấy khóc, nôn nhiều, bú kém, nhịp thở bất thường, lì bì, co giật, hoặc hôn mê.

Trong một số trường hợp Hội chứng rung lắc nhẹ, trẻ có thể không biểu hiện triệu chứng ngay, nhưng một thời gian sau có thể gặp phải những vấn đề liên quan đến chậm phát triển tinh thần vận động.

BS Đông khuyến cáo, để phòng hội chứng rung lắc, cha mẹ cần lưu ý:

- Tuyệt đối không thực hiện những động tác xoay chuyển đầu trẻ một cách đột ngột như: rung lắc nôi đối với trẻ nhỏ; bế thốc ngược; xốc vác trẻ gấp gáp; tung hứng trẻ khi nô đùa; tát, đánh vào tai, vào đầu, vào mặt trẻ.

- Tuyệt đối không tung hứng trẻ lên cao khi nô đùa để tránh gây những hậu quả đáng tiếc.

Khi trẻ có dấu hiệu của hội chứng này, ngay lập tức gọi cấp cứu, hạn chế bế xốc hay rung lắc thêm để gọi trẻ tỉnh lại, không cho trẻ ăn hoặc uống nước trước khi có cấp cứu hỗ trợ.

Nếu trẻ ngừng thở, phụ huynh cần chủ động thực hiện hô hấp nhân tạo. Trong một số trường hợp, trẻ có thể bị nôn trớ, để tránh bị sặc, hãy nhẹ nhàng đặt nghiêng đầu và người trẻ theo một trục đồng nhất (nếu có chấn thương cột sống, phương pháp này sẽ giúp giảm nguy cơ tổn thương thêm).