Lĩnh án tù vì tống tiền cán bộ Nhà nước
(Dân trí) - Nắm được sai sót của các cán bộ văn phòng đăng ký đất đai, người phụ nữ 52 tuổi ở Thái Nguyên nhiều lần đe dọa và buộc các nạn nhân phải chuyển 300 triệu đồng, nếu không sẽ tố cáo và đăng Facebook.
Ngày 24/9, TAND huyện Phú Lương (tỉnh Thái Nguyên) mở phiên tòa sơ thẩm vụ án Cưỡng đoạt tài sản, xét xử bị cáo Nguyễn Thị Tin (52 tuổi, ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên).
Tin bị cáo buộc có hành vi đe dọa nhằm cưỡng đoạt tiền của chị Đào Thị Quỳnh Trâm (Giám đốc chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Phú Lương) và chị Vũ Thị Hường (cán bộ chi nhánh).
Có hay không hành vi đe dọa?
VKS cáo buộc tháng 11/2023, Tin biết sai sót của các cán bộ chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Phú Lương gây ảnh hưởng đến giá trị và việc cấp đổi sổ đỏ thửa đất tại Tổ dân phố Lân 2 (thị trấn Đu).
Người phụ nữ đã yêu cầu chị Trâm, chị Hường phải chuyển 300 triệu đồng, nếu không sẽ tố cáo đến các cơ quan có thẩm quyền và đăng lên Facebook. Lo sợ ảnh hưởng đến danh dự và công việc, chị Trâm và chị Hường chuyển trước cho Tin 50 triệu đồng.
Không đồng ý với nội dung cáo trạng, nữ bị cáo cho biết chơi rất thân với Trâm và hai người ban đầu đều thiện chí về việc giải quyết sai sót.
Tuy nhiên, phương án chị Trâm đưa ra không được Tin chấp thuận nên nảy sinh mâu thuẫn. Tin đề nghị chị Trâm bán giúp mảnh đất với giá 1,1 tỷ đồng.
Theo lời khai của bị cáo, chị Trâm đồng ý chuyển một khoản tiền để đặt cọc, coi như đã nhận mua lại mảnh đất nhưng đã không thực hiện. Về sau, qua giới thiệu của chị Trâm, ông Nguyễn Hồng Hà (49 tuổi) đồng ý mua mảnh đất của Tin với giá 800 triệu đồng.
Sau khi ông Hà trả giá 800 triệu đồng, Tin đe dọa, yêu cầu chị Trâm và chị Hương "khắc phục" 300 triệu đồng.
Ngày 27/11/2023, Tin yêu cầu chị Hường chuyển trước 70 triệu đồng để trả nợ nhưng bị hại không thực hiện. Một ngày sau, Tin lại đe dọa và được chị Hường đề nghị chuyển trước 50 triệu đồng.
Trước tòa, Tin khai số tiền 70 triệu đồng là vay mượn để trả nợ, đến khi tài khoản nhận 50 triệu đồng, bị cáo không còn cần nữa nên liên hệ với Hường để trả lại nhưng không được.
Do đó, Tin trình báo, nộp lại 50 triệu đồng trên cho công an sở tại với lý do "không có nội dung chuyển khoản".
Trong khi đó, chị Trâm cho biết nhiều lần bị Tin hối thúc đến hoang mang nên giao chị Hường thỏa thuận với bị cáo. Còn chị Hường nhận thức số tiền 70 triệu là tiền phải chuyển trước trong số 300 triệu đồng.
Yếu tố thể hiện ý thức chiếm đoạt của bị cáo
Trong bản luận tội, đại diện VKS giữ quan điểm truy tố, đề nghị HĐXX phạt Tin 8-9 năm tù.
Bào chữa cho bị cáo, luật sư Trịnh Văn Tuyến thừa nhận thân chủ đã gây áp lực với 2 bị hại nhưng không đe dọa và cũng không chiếm đoạt tài sản, được thể hiện khi Tin chỉ đòi "bồi thường", "khắc phục"...
Luật sư cũng nhận định diễn biến vụ án cho thấy 2 bị hại "giữ thế chủ động" về phương án giải quyết sai sót, hợp tác với bị cáo trong xử lý sổ đỏ.
Bên cạnh đó, với hành động chủ động trả lại 50 triệu đồng, luật sư cho rằng "không có người cưỡng đoạt tài sản nào lấy tiền rồi lại mong muốn trả lại".
Đối đáp lại, VKS phân tích ngay từ đầu, 2 bị hại đã chủ động khắc phục sai sót, nhưng "bằng nhiều biện pháp", Tin đã không đồng ý. Đồng thời, Tin làm đơn tố cáo nhưng không gửi đơn mà lại dọa sẽ gửi đơn.
"Nếu không có mục đích chiếm đoạt tài sản, bị cáo đã gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền", đại diện cơ quan tố tụng nói và lập luận, mục đích "bắt đền" của bị cáo là muốn bị hại bỏ tiền túi chứ không phải khắc phục trên hồ sơ.
Với tình tiết Tin nhận 50 triệu đồng rồi nộp lại, VKS cho rằng yếu tố cấu thành hành vi cưỡng đoạt tài sản không phụ thuộc vào việc đã đưa tiền hay chưa. Cơ quan tố tụng căn cứ vào thời điểm bị cáo đe dọa, yêu cầu chuyển 300 triệu đồng, để truy tố.
Sau khi nghị án, HĐXX nhận định bị cáo Tin có quyền làm đơn gửi cơ quan thẩm quyền chỉnh lý sai phạm khi phát hiện có sai sót. Tuy nhiên, bị cáo biết khi chỉnh lý sẽ ảnh hưởng đến giá trị thửa đất nên yêu cầu 2 bị hại khắc phục.
Đây là yếu tố thể hiện ý thức chiếm đoạt của bị cáo.
Do đó, TAND huyện Phú Lương tuyên phạt Nguyễn Thị Tin 8 năm 6 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản.