Xử lý ô nhiễm môi trường do hóa chất: Cần văn bản hướng dẫn chi tiết
Dự án “Xây dựng năng lực nhằm loại bỏ hóa chất BVTV tồn lưu tại Việt Nam” do Bộ TN&MT thực hiện đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý vẫn phát sinh nhiều khó khăn do chưa có văn bản hướng dẫn riêng biệt và chi tiết.
Ngoài ra, còn một số văn bản dưới Luật khác như: Quyết định 64/2003/QĐ – TTg của Chính phủ ban hành ngày 22/4/2003 về việc phê duyệt: Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng; Quyết định số 58/2008/QĐ - TTg, ngày 29/4/2008 của Chính phủ về việc hỗ trợ có mục tiêu kinh phí từ ngân sách nhà nước nhằm xử lý triệt để, khắc phục ô nhiễm và giảm thiểu suy thoái môi trường cho một số đối tượng thuộc khu vực công ích; Nghị định số 58/2002/NĐ-CP ban hành Điều lệ bảo vệ thực vật và Điều lệ quản lý thuốc bảo vệ thực vật; Nghị định số 26/2003/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2003 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật…
Năm 2010, Chính phủ cũng phê duyệt “Kế hoạch phòng ngừa, xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường do hóa chất BVTV tồn lưu trên cả nước” theo Quyết định 1946/QĐ-TTg ngày 21/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, chương trình sẽ tập trung xử lý các khu vực tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng trên 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm: Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị.
Đến nay, việc triển khai thi hành theo văn bản pháp luật đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, những hệ thống pháp luật hiện hành trên vẫn còn gặp phải một số hạn chế gây khó khăn cho các đơn vị liên quan khi thực hiện. Đơn cử như: Các quy định còn thiếu và quá chung chung, khó triển khai áp dụng trên thực tiễn nhằm phòng ngừa nguy cơ gia tăng ô nhiễm môi trường tại các điểm tồn lưu hóa chất BVTV; chưa có sự thống nhất trong việc phân công trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với xử lý ô nhiễm môi trường do thuốc BVTV tồn lưu; Thiếu các biện pháp chế tài phù hợp đối với các hành vi vi phạm; chưa có quy định hợp lý về việc thải bỏ bao bì đựng hóa chất BVTV và thải bỏ hóa chất bảo vệ thực vật quá hạn sử dụng; thiếu các hướng dẫn kỹ thuật và các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động điều tra, xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường các điểm ô nhiễm tồn lưu…
Thiết nghĩ, trong thời gian tới, cần phải ban hành cụ thể hơn nữa các văn bản pháp luật, hướng dẫn một cách chi tiết, cụ thể về xử lý, cải tạo và phục hồi ô nhiễm môi trường do hóa chất BVTV POP tồn lưu tại Việt Nam. Có như vậy, cơ quan thực thi mới có cơ sở áp dụng để giải quyết vấn đề này một cách đồng bộ, nhất quán và đảm bảo một môi trường trong lành hơn.
Huyền Trang