1. Dòng sự kiện:
  2. Định hướng cải cách tiền lương

Chuyện về chiếc lồng bàn giá 30 triệu đồng được đại gia săn đón

Sơn Nguyễn

(Dân trí) - Yêu và gắn bó với nghề mây tre đan từ nhỏ, vợ chồng nghệ nhân Trần Văn Khá (Chương Mỹ, Hà Nội) đã cho ra đời chiếc lồng bàn "độc nhất vô nhị" không chỉ nuôi sống gia đình mà còn vươn ra thế giới.

Chiếc lồng bàn 30 triệu đồng

Làng Phú Vinh, một làng nghề ở Hà Nội nổi tiếng với nghề mây tre đan truyền thống, có lịch sử hình thành và phát triển gần 400 năm. Người dân địa phương cho biết, làng Phú Vinh ban đầu có tên gọi là Phú Hoa Trang, nghĩa là trời phú cho dân có bàn tay lụa. Bởi, người dân nơi đây có đôi bàn tay vô cùng điệu nghệ, khéo léo trong việc đan lát mây tre. 

Cứ vậy, "cha truyền con nối", bao thế hệ người dân trong làng đều gắn bó với cây tre, cây mây. Cũng chính từ đó, nghề mây tre đan dần phát triển và trở thành nghề truyền thống của làng Phú Vinh.

Chuyện về chiếc lồng bàn giá 30 triệu đồng được đại gia săn đón - 1

Ông Trần Văn Khá và bà Nguyễn Thị Tiến, đôi vợ chồng cho ra đời chiếc lồng bàn thủ công độc đáo (Ảnh: Đình Trung).

Đến nay, rất nhiều gia đình tại làng Phú Vinh vẫn giữ và phát triển nghề truyền thống này. Nhờ vào đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân, những sản phẩm mây tre đan được tạo ra vô cùng tỉ mỉ, đan tết hoa văn độc đáo, tinh xảo vô cùng đẹp mắt.

Nhiều năm  trở lại đây, người dân trong làng cũng như du khách xa gần đều không xa lạ gì với sản phẩm nổi tiếng là lồng bàn "màn tuyn" do gia đình nhà ông Trần Văn Khá và bà Nguyễn Thị Tiến tự sáng tạo ra.

Ông Khá (cha đẻ của những chiếc lồng bàn) chia sẻ, nghề mây tre đan ở làng Phú Vinh vốn là nghề thủ công truyền thống. Từ thuở ông sinh ra, ở làng đã làm nghề này, ông Khá là đời thứ tư, thứ năm. 

"Năm 1969, sau khi xuất ngũ trở về địa phương, tôi lập gia đình và bắt đầu chuyển sang làm mây tre đan cùng vợ là bà Phạm Thị Tiến (73 tuổi). 

Bà nhà tôi gắn bó với nghề này từ khi mới 6 tuổi. Ở làng vợ tôi vô địch vì tốc độ đan nhanh gấp 2, gấp 3 so với những người cùng làng", ông Khá chia sẻ.

Ngoài những món đồ truyền thống phục vụ đời sống hằng ngày như dần, sàng, thúng,... các sản phẩm mây tre đan của gia đình ông Khá ngày càng có thêm nhiều mẫu mã hiện đại, đa dạng. Ông Khá luôn tự hào vì nghề mây tre đan mang lại cuộc sống đầy đủ, thu nhập tốt để vợ chồng ông nuôi 5 người con ăn học và lo nghề nghiệp cho các con... 

"Khi các con đã có cuộc sống ổn định, gánh nặng cơm áo gạo tiền cũng vơi đi nhiều nên vợ chồng tôi nghĩ đến việc làm sao cho ra một sản phẩm để xứng danh với cái nghề truyền thống cha ông để lại.

Thế rồi vợ tôi mới quyết định chọn chiếc lồng bàn, bà ấy cũng có bàn với tôi đi học thêm kinh nghiệm đan lồng bàn nhưng tôi bảo chẳng phải học đâu xa, cứ lên ý tưởng là tôi làm được", ông Khá tâm sự về lý do vợ chồng ông chọn chiếc lồng bàn.

Chuyện về chiếc lồng bàn giá 30 triệu đồng được đại gia săn đón - 2

Chiếc lồng bàn "màn tuyn" có giá 30 triệu khiến nhiều người ngỡ ngàng (Ảnh: Đình Trung).

Nói là làm, ngay sáng hôm sau ông Khá tìm lên chợ Lụa (Thạch Thất, Hà Nội) để mua mây, mỗi lần ông thường mua khoảng 40kg mây, trải qua nhiều công đoạn khi lọc ra chỉ được khoảng 8kg mây đạt tiêu chuẩn, số còn lại thừa thì đem đi bán.

Để tạo ra một chiếc lồng bàn đẹp, đạt tiêu chuẩn, ông Khá cho biết phải trải qua nhiều quy trình khác nhau. Đầu tiên là khâu chọn mây, phải chọn được loại mây đều, đẹp. Mua về bắt đầu ngồi lóc mây, lóc những cái mấu cho nhẵn, sau đó bắt đầu chẻ. 

Chẻ mây xong thì đem đi sấy cho khô, kiểm tra thấy trắng rồi phơi (không được phơi lâu sẽ bị biến màu sang ố đỏ) - kiểm tra thấy đạt chuẩn là để xuống đất thì mây tự nhiên hồi lại, khi nào làm sẽ đưa ra xử lý rồi đan dần. 

"Thời gian đầu bắt tay vào làm, được ít phút vợ tôi lại kiểm tra sợi nan mây. Nếu sợi chưa đạt yêu cầu thì phải chuốt lại sợi cho nhỏ hơn, mỏng và mịn hơn", ông Khá chia sẻ.

Theo ông Khá, những sản phẩm lồng bàn đầu tiên ra đời vào năm 2003 bất ngờ "hót", ai nấy khi xem đều tỏ ra thích thú. Mỗi chiếc lồng bàn thời điểm đó có giá khoảng 6 triệu đồng nhưng không có hàng để bán.

"Nếu tập trung, trong một tháng vợ chồng tôi chỉ làm được hai chiếc. Tuy nhiên rất may, sản phẩm này khi làm ra được lòng rất nhiều khách hàng, thậm chí có thời điểm khách đến đặt hàng không có thời gian để đan, phải 5-6 tháng mới đến lượt", ông Khá cho biết.

Đem nghề của quê hương ra thế giới

Nhờ cái tâm với nghề, những chiếc lồng bàn thủ công độc đáo của vợ chồng ông Khá dần lọt vào mắt của khách hàng trong và ngoài nước, có doanh nghiệp đã tìm đến tận nơi để đặt hàng. 

Bà Tiến (vợ ông Khá) chia sẻ, năm 2012, ông bà được mời ra nước ngoài giao lưu, biểu diễn tay nghề mây tre đan tại một hội chợ ở tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc). Mỗi khi đôi vợ chồng người Việt "chuốt sợi như kéo đàn, đan nan mà như múa", những người xung quanh lại bỏ hết công việc, túm lại xem.

"Tại hội chợ năm ấy, một vị lãnh đạo trong chính quyền Chiết Giang đã xuống tiền mua lồng bàn của vợ chồng tôi. Người này còn tặng cho vợ chồng tôi cặp dây chuyền bằng ngọc trai để bày tỏ sự kính trọng", bà Tiến nhớ lại.

Chuyện về chiếc lồng bàn giá 30 triệu đồng được đại gia săn đón - 3

Ở làng, bà Tiến đan nhanh gấp 2,3 lần người trong làng (Ảnh: Đình Trung).

Tại Việt Nam, sản phẩm lồng bàn của vợ chồng ông Khá từng giành giải nhất tại hội thi sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Chiếc lồng bàn đạt giải năm ấy nặng 290gram.

Nhờ những dịp như vậy, những chiếc lồng bàn thủ công được nhiều người trong nước, quốc tế biết đến. Hiện tại, giá trị mỗi chiếc lồng bàn do vợ chồng ông Khá bà Tiến làm ra có giá 30 triệu đồng/chiếc. 

Ở hiện tại, dù nghề mây tre đan này vẫn còn tồn tại nhưng trong gia đình ông Khá, các con ông lại không có ai theo nghề. Có lẽ, do xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa buộc thế hệ tương lai phải thích nghi với nhiều ngành nghề mới, để tạo ra nhiều của cải vật chất lo cho cuộc sống gia đình. 

Chuyện về chiếc lồng bàn giá 30 triệu đồng được đại gia săn đón - 4

Nhiều người đến học vợ chồng ông Khá làm lồng bàn nhưng chưa có ai làm được (Ảnh: Đình Trung).

"Học nghề này không phải là học 1-2 năm mà phải học cho tới khi thạo nghề mới có thể kiếm ăn. Có khi phải học cả đời và yêu nghề thì mới có thể sống được với nghề.

Gia đình tôi đông con cháu nhưng không ai theo nghề này. Ở làng cũng nhiều người đến học nhưng không ai đan được", ông Khá trăn trở.