Việt Nam "bị kẹt" ở bẫy giá trị gia tăng thấp do thiếu sáng tạo

(Dân trí) - Chuyên gia từ WB cho rằng, Việt Nam hiện đang "bị kẹt" ở bẫy giá trị gia tăng thấp do không thể phát triển các chức năng có giá trị cao hoặc cần năng lực đổi mới sáng tạo.

(Ảnh minh hoạ).
(Ảnh minh hoạ).

Tại buổi giới thiệu Báo cáo Việt Nam trước ngã rẽ – Tham gia chuỗi giá trị toàn cầu thế hệ mới do Nhóm Ngân hàng Thế giới (WBG) phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức sáng nay (7/9), ông Charles Kunaka, chuyên gia kinh tế trưởng, Vụ Thương mại, Khối Thương mại và Cạnh tranh (WB) cho biết, ở mức gần 180%, Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ xuất nhập khẩu trên GDP thuộc dạng cao nhất và đang trở thành một trong những nền kinh tế mở cửa nhất về thương mại với thế giới. Tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam cao hơn tăng trưởng xuất khẩu của toàn cầu.

Việt Nam đã bước đầu tạo một chỗ đứng trong các chuỗi giá trị toàn cầu và chứng tỏ mức độ hội nhập cao hơn cả với tư cách là bên mua trong những chuỗi giá trị toàn cầu từ năm 1995 qua đẩy mạnh hội nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu phía bên mua. Điều này tạo điều kiện để Việt Nam chuyển dịch lên nấc thang cao hơn trong các chuỗi giá trị toàn cầu. Việt Nam tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong nước trong tổng xuất khẩu 16,6% mỗi năm từ năm 1995 đến năm 2011, chỉ thấp hơn so với Trung Quốc.

Báo cáo WB đánh giá Việt Nam đang nổi lên như một “công xưởng chế tạo, chế biến của châu Á”. Xu hướng thương mại theo các chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam cho thấy sự tập trung mạnh mẽ trong khu vực. Hiện có 4 ngành tham gia chuỗi giá trị toàn cầu có vai trò quan trọng ở Việt Nam là: ô tô - xe máy, ngành điện tử, kinh doanh nông nghiệp và dệt may.

Tuy nhiên, chuyên gia từ WB cũng cho rằng, Việt Nam hiện đang "bị kẹt" ở bẫy giá trị gia tăng thấp do không thể phát triển các chức năng có giá trị cao hoặc cần năng lực đổi mới sáng tạo. Việt Nam đang đứng trước thách thức dư địa dành cho doanh nghiệp sản xuất trong nước không nhiều do các doanh nghiệp đầu đàn quy mô lớn (Samsung, Ford, Toyota) trong các chuỗi giá trị toàn cầu thường sử dụng cùng các nhà cung cấp toàn cầu ở khắp mọi nơi.

"Các công đoạn giá trị cao như đổi mới sáng tạo, thiết kế, sản xuất phụ tùng, cấu kiện lõi nằm ngoài Việt Nam. Dẫn tới rủi ro về lâu dài khi các đối thủ cạnh tranh có chi phí thấp hơn thu hút đầu tư nước ngoài ra khỏi Việt Nam", Charles Kunaka cho biết.

Trong khi đó, đến nay Việt Nam mới chỉ chuyên môn hóa ở các hoạt động mang lại giá trị gia tăng thấp, liên kết nội địa còn yếu.

“Trình tự chuyển đổi cơ cấu đã thay đổi, Việt Nam không thể dựa vào kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trước đó. Việt Nam có thể tiếp tục phát triển để làm nền tảng xuất khẩu cho các chuỗi giá trị toàn cầu và chuyên sâu vào các chức năng gia công, lắp ráp đem lại giá trị gia tăng thấp, theo hướng công nghiệp hóa riêng rẽ mà không kết nối nhiều về kinh tế hoặc xã hội với bên ngoài”, đại diện WB cho hay.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có thể tận dụng làn sóng tăng trưởng nhằm đa dạng hóa và dịch chuyển theo chuỗi để tham gia vào các phân khúc đem lại giá trị gia tăng cao hơn và nắm bắt cơ hội để nuôi dưỡng các doanh nghiệp trong nước tuy non trẻ nhưng có khả năng tự chủ, năng động và đổi mới sáng tạo có thể phát triển “sáng chế tại Việt Nam” của riêng mình.

“Thành công ở cả hai lĩnh vực trên đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam phải nhìn nhận tiến trình phát triển khác đi và cân nhắc đầy đủ hơn những thực tế mới trong nền kinh tế toàn cầu”, phía WB khuyến nghị.

Ngoài ra, báo cáo cũng đưa ra khuyến nghị, Việt Nam cần có các cơ chế chính sách nhằm tăng cường năng lực và công nghệ của các doanh nghiệp trong nước sẽ tạo điều kiện cho họ kết nối với các doanh nghiệp FDI và vươn ra thị trường quốc tế. Đồng thời, cải thiện sự phối hợp giữa các bộ, ngành, tạo thuận lợi về trao đổi thông tin và liên hệ giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, đồng thời hỗ trợ có mục tiêu nhằm phát huy thế mạnh của một số nhà cung ứng trong nước.

Nếu đạt vị thế cao hơn trong các chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam có thể thu hút thêm đầu tư nước ngoài quy mô lớn, qua đó tạo thêm việc làm và cơ hội cho các nhà cung ứng nước ngoài. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, cần phải có một gói sáng kiến cải cách toàn diện như: Thu hẹp khoảng cách chênh lệch về hạ tầng thông qua đẩy mạnh huy động vốn của khu vực tư nhân và áp dụng cách tiếp cận tổng hợp hơn trong phát triển các hành lang giao thông; phát triển các thị trường dịch vụ cạnh tranh và tự do hóa các quy định về đầu tư trực tiếp nước ngoài; hợp lý hóa các thủ tục biên giới để nâng cao minh bạch và khả năng tiên liệu; thúc đẩy quan hệ với các nước phát triển để đảm bảo nhu cầu mạnh mẽ và đầu tư về công nghệ...

Phương Dung