(Dân trí) - Vì sao vàng lại quý? Những nước nào đang tích nhiều vàng nhất và vì sao họ lại tích vàng? Thế giới sẽ cạn kiệt vàng trong 20 năm tới? Giá vàng lập đỉnh khi nào và 20 năm qua biến động ra sao?
Những ngày này, ngoài chiến sự Nga - Ukraine và giá xăng dầu, vàng là chủ đề thu hút nhiều sự chú ý khi giá kim loại này tăng cao và liên tục nhảy múa. Nguyên nhân được cho là chiến sự ở Ukraine khiến các nhà đầu tư lo sợ và một số đang chuyển sang vàng - kim loại quý được coi là nơi trú ẩn an toàn.
Tại sao vàng lại được coi là tài sản an toàn? Tại sao vàng lại tối quan trọng với nền kinh tế? Và tại sao các quốc gia cần dự trữ vàng?
CÁC NƯỚC DỰ TRỮ VÀNG RA SAO?
Tổng trữ lượng vàng của các mỏ trên toàn thế giới vẫn tương đối ổn định trong suốt giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2021. Tính đến năm 2021, dự trữ vàng toàn cầu ở mức 54.000 tấn, giảm so với mức cao nhất 57.000 tấn vào năm 2016.
Hầu như không có sự xáo trộn trong danh sách 10 ngân hàng trung ương nắm giữ lượng vàng dự trữ lớn thế giới trong nhiều thập kỷ qua.
Theo số liệu của Trading Economics tính đến tháng 12/2021, Mỹ vẫn là cái tên đứng đầu trong danh sách 10 nước có dự trữ vàng lớn nhất, với 8.133 tấn, nhiều hơn cả Đức và Italy cộng lại. Mỹ cũng có tỷ lệ phân bổ vàng cao nhất theo tỷ lệ phần trăm trong dự trữ ngoại hối của mình, ở mức 76%. Phần lớn vàng của Mỹ được cất giữ ở Fort Knox ở Kentucky.
Nhiều ngân hàng trung ương đã chuyển từ bán ròng sang mua ròng trong năm 2010. Nga là nước mua vàng lớn nhất trong 7 năm qua. Chỉ tính riêng năm 2018, Nga đã mua tới 274 tấn vàng.
Trong khi đó, Trung Quốc là quốc gia sản xuất hàng đầu, chiếm 11% sản lượng khai thác toàn cầu, tương đương 380 tấn. Đứng thứ hai là Nga với sản lượng 329,5 tấn và Australia đứng thứ ba với 325,1 tấn.
Cụ thể, số liệu như sau:
20 NĂM, GIÁ VÀNG BIẾN ĐỘNG THẾ NÀO?
Theo biểu đồ giá vàng của Bullion By Post, giá vàng biến động tương đối đáng kể trong 20 năm qua.
Giá vàng tương đối thấp và tăng chậm trong đầu thập kỷ của những năm 2000, nhưng lại bắt đầu tăng mạnh từ năm 2006.
Ngày 5/9/2011, kim loại này đạt đến đỉnh ở mức 1.895 USD/ounce nhưng giảm liên tiếp vào những năm tiếp theo. Trong thời kỳ giảm, giá chạm đáy 1.055 USD/ounce vào ngày 18/12/2015 rồi sau đó lại tăng tiếp.
Kỷ lục giá vàng là 2.067 USD/ounce, được thiết lập vào ngày 6/8/2020. Mức giá này cũng là mức cao nhất của vàng được ghi nhận trong 2 thập kỷ qua.
Đầu năm 2022, vàng đã tăng vượt ngưỡng 2.000 USD/ounce khi các nhà đầu tư tìm kiếm nơi an toàn hơn để gửi tiền trong bối cảnh chiến sự tại Ukraine và lạm phát gia tăng. Giá kim loại quý này đã tiến về mức cao nhất từng được ghi nhận.
Chia sẻ trên tạp chí Barons (Mỹ), ông Geetesh Bhardwaj, Trưởng nhóm nghiên cứu của công ty quản lý đầu tư SummerHaven, cho biết: "Diễn biến gần đây trên thị trường hàng hóa toàn cầu hoàn toàn khác với bất kỳ điều gì chúng tôi đã trải qua trong các thập kỷ qua với tư cách là nhà quản lý tài sản".
Ngày 8/3 vừa qua, giá vàng giao tương lai vượt 2.043 USD/ounce, tiến khá gần so với mức kỷ lục 2.067 USD/ounce được thiết lập năm 2020. Nhưng chỉ sau một hôm, giá giảm về vùng 1.988 USD.
Geetesh Bhardwaj cho biết: "Việc thiết lập bức tranh toàn cảnh cho thị trường đã tạo ra một cơn bão hoàn hảo khiến các nhà đầu tư đổ xô nắm lấy vàng như một nơi trú ẩn an toàn". Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo rằng sự biến động về giá sẽ còn tiếp tục, nhà đầu tư cần cảnh giác: "Bất cứ ai nghĩ đến việc mua vào lúc này phải hiểu rằng họ sẽ phải đối mặt với một chặng đường rất gập ghềnh với những đợt giảm giá đột ngột và bất ổn có thể xảy ra khi thị trường phản ứng với các sự kiện địa chính trị. Lạm phát và sự không chắc chắn về chính sách là "ở đây để tồn tại", nhưng "sự tỉnh táo trở lại ở châu Âu sẽ gây ra sự điều chỉnh trên thị trường vàng".
VÌ SAO CÁC NƯỚC TÍCH VÀNG?
Vàng có một lịch sử lâu đời là nỗi ám ảnh của con người. Ngay từ lần đầu tiên nhân loại để mắt đến vàng, sự khao khát đối với thứ kim quý này chưa bao giờ giảm đi mà ngược lại ngày càng tăng. Vàng hấp dẫn các nền văn minh trên toàn thế giới và đã tạo điều kiện cho việc áp dụng vàng trên toàn cầu như một phương tiện trao đổi. Giá và sản lượng vàng đã tăng vọt trên toàn cầu và cùng với nó là nhu cầu đối với vàng cũng tăng theo.
Một quốc gia có dự trữ vàng vì một số lý do, nhưng lý do chính trong số này là do chính sách bảo hiểm chống lại sự sụp đổ kinh tế. Hệ thống tài chính toàn cầu hiện tại dựa trên tiền pháp định - loại tiền giấy không được đảm bảo giá trị bởi bất kỳ tài sản vật chất nào ngoài lời của nhà phát hành là chính phủ. Vàng là một kim loại quý hiếm và đã được gắn liền với sự giàu có, giá trị trong hàng ngàn năm. Cho đến ngày nay nó vẫn là một tài sản hữu ích và có giá trị. Tương tự như cách các nhà đầu tư tư nhân sử dụng vàng để bảo hiểm, các ngân hàng trung ương cũng vậy.
Trong báo cáo tháng 10/2019, Ngân hàng Hà Lan (DNB) viết: "Cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác đều chứa rủi ro. Khi có vấn đề xảy ra, giá của chúng có thể giảm. Tuy nhiên, vàng - dù khủng hoảng hay không - vẫn luôn giữ được giá trị. Các ngân hàng trung ương như DNB thường dự trữ rất nhiều vàng trong kho. Vàng là mỏ neo tin cậy cho hệ thống tài chính. Nếu toàn bộ hệ thống sụp đổ, kho vàng khi đó sẽ cung cấp một tài sản thế chấp để bắt đầu xây dựng lại. Vàng tạo niềm tin vào sức mạnh của bảng cân đối kế toán của ngân hàng trung ương. Điều đó mang lại cảm giác an toàn".
Thế nên với các quốc gia, dự trữ vàng đặc biệt quan trọng. Khi lạm phát bắt đầu tăng, các nước sẽ mua một lượng lớn vàng như một biện pháp chống lại lạm phát. Trong trường hợp xấu nhất, dự trữ vàng cung cấp cho một quốc gia sự bảo hiểm nếu giá trị tiền pháp định của đất nước đó giảm. Nếu tiền pháp định của họ trở nên vô giá trị hoặc gần như vô giá trị, thì họ vẫn có vàng vật chất để trả nợ và phát hành tiền.
Trong khi nhà đầu tư tìm kiếm sự an toàn bằng cách đầu tư vào vàng, các ngân hàng trung ương trên thế giới cũng đua nhau tích trữ vàng.
Vàng đã là một thành phần thiết yếu trong dự trữ tài chính của các quốc gia trong nhiều thế kỷ và sức hấp dẫn của kim loại này không hề có dấu hiệu giảm đi với việc các ngân hàng trung ương sẽ lại mua vàng ròng trong năm nay. Trên thực tế, các ngân hàng trung ương hiện nắm giữ hơn 35.000 tấn vàng, tương đương với khoảng 1/5 tổng số vàng từng được khai thác.
Dự trữ vàng là một phần trong tổng tài sản của một quốc gia. Trong quá khứ, vàng được các nhà cầm quyền và chính phủ tích lũy chủ yếu để đáp ứng chi phí tiến hành chiến tranh và trong hầu hết các thời đại, chính sách của chính phủ thường nhấn mạnh đến việc mua và giữ "kho báu". Các ngân hàng tích lũy vàng dự trữ để đổi lấy lời hứa trả cho người gửi tiền bằng vàng.
Trong suốt thế kỷ 19, các ngân hàng đã thay thế chính phủ với tư cách là người nắm giữ vàng dự trữ chính. Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi có hoàn trả bằng vàng theo yêu cầu và phát hành tiền giấy có thể hoàn trả bằng vàng theo yêu cầu. Do đó, mỗi ngân hàng phải dự trữ một lượng tiền vàng để đáp ứng nhu cầu mua lại. Tuy nhiên, theo thời gian, phần ưu đãi trước của lượng vàng dự trữ chuyển sang các ngân hàng trung ương. Bởi vì tiền giấy của các ngân hàng thương mại đã được thay thế toàn bộ hoặc phần lớn bằng giấy bạc của ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại cần rất ít hoặc không cần vàng để mua lại giấy bạc. Các ngân hàng thương mại cũng phụ thuộc vào ngân hàng trung ương về lượng vàng cần thiết để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền.
Trong những năm 1930, nhiều chính phủ yêu cầu các ngân hàng trung ương của họ phải chuyển giao cho kho bạc quốc gia toàn bộ hoặc phần lớn lượng vàng nắm giữ của họ. Ví dụ, ở Mỹ, Đạo luật Dự trữ Vàng năm 1934 quy định rằng Bộ Tài chính nước này phải có quyền sở hữu đối với tất cả đồng tiền vàng, thỏi vàng và chứng chỉ vàng do các ngân hàng Cục Dự trữ Liên bang trung ương nắm giữ.
Nhưng không phải tất cả các chính phủ đều "quốc hữu hóa" vàng, điều đó dẫn đến tình trạng dự trữ vàng khác nhau giữa các quốc gia. Ở một số nước, dự trữ vàng tiền tệ do chính phủ quốc gia độc quyền nắm giữ; trong khi đó ở nhiều quốc gia khác, kho dự trữ vàng phần lớn được nắm giữ.
Nhiều nước, vì mục đích an ninh, chọn lưu trữ vàng dự trữ bên ngoài hệ thống ngân hàng của họ. Ví dụ ở Vương quốc Anh, Ngân hàng Trung ương Anh không chỉ lưu trữ vàng dự trữ của Anh mà còn dự trữ một số quốc gia khác. Tuy nhiên, bất kể người nắm giữ nào, việc sử dụng vàng dự trữ hầu như chỉ giới hạn trong việc giải quyết các giao dịch quốc tế.
Được sử dụng rộng rãi trong thế kỷ 19 và 20, bản vị vàng là một hệ thống tiền tệ trong đó đơn vị tài khoản kinh tế tiêu chuẩn dựa trên một lượng vàng cố định. Nhiều quốc gia đã xóa bỏ hệ thống này nhưng vẫn giữ lượng vàng dự trữ đáng kể như một tài sản trú ẩn an toàn trong thời kỳ kinh tế bất ổn để bảo toàn của cải.
MỐI TƯƠNG QUAN VÀNG VÀ TIỀN RA SAO?
Vàng có sức hấp dẫn lâu dài và tầm ảnh hưởng rộng lớn. Mặc dù không còn được sử dụng như một hình thức tiền tệ chính ở các quốc gia phát triển, kim loại màu vàng này vẫn có tác động mạnh mẽ đến giá trị của các loại tiền tệ đó. Hơn nữa, có một mối tương quan chặt chẽ giữa giá trị của vàng và sức mạnh của tiền tệ được giao dịch trên các sàn giao dịch nước ngoài.
Thứ nhất, vàng từng được sử dụng để sao lưu tiền tệ. Ngay từ thời Đế chế Byzantine, vàng đã được sử dụng để hỗ trợ cho tiền tệ quốc gia. Vàng cũng được sử dụng làm tiền tệ dự trữ thế giới trong suốt thế kỷ 20. Mỹ sử dụng chế độ bản vị vàng cho đến năm 1971 khi Tổng thống Nixon ngừng sử dụng chế độ này.
Sau khi chế độ bản vị vàng bị xóa bỏ, các quốc gia không dễ để in tiền pháp định. Các nước phải có một lượng vàng tương đương trong kho dự trữ để bảo đảm cho tiền giấy được lưu thông. Mặc dù bản vị vàng đã không còn tồn tại từ lâu ở các nước phát triển, một số nhà kinh tế học cho rằng chế độ này nên được áp dụng lại do sự biến động của đồng đôla Mỹ và các loại tiền tệ khác. Theo đó, vàng sẽ giúp giới hạn số lượng tiền mà các quốc gia được phép in.
Thứ hai, vàng được sử dụng để chống lại lạm phát. Các nhà đầu tư thường mua một lượng lớn vàng khi mức lạm phát tại đất nước của họ tăng cao. Nhu cầu về vàng tăng lên trong thời kỳ lạm phát do giá trị vốn có của nó và nguồn cung hạn chế. So với các hình thức tiền tệ khác, vàng có khả năng giữ giá trị tốt hơn.
Chẳng hạn, vào tháng 4/2011, các nhà đầu tư lo ngại về sự suy giảm giá trị của tiền pháp định và đã đẩy giá vàng xuống mức thấp đáng kinh ngạc 1.500 USD/ ounce. Điều này cho thấy niềm tin nhỏ nhoi vào tiền tệ trên thị trường thế giới và sự ổn định kinh tế trong tương lai.
Tuy nhiên, câu chuyện vàng có chống được lạm phát hay không vẫn gây tranh cãi rất nhiều. Theo trưởng bộ phận nghiên cứu của Boost ETP, Viktor Nossek, nhận thức này là sai lầm. Ông này cho rằng, vàng phát huy tác dụng tốt hơn ở môi trường giảm phát. "Trước kia chúng ta chưa từng nới lỏng tiền tệ như hiện nay và lịch sử của vàng với chức năng tài sản ngừa lạm phát chỉ dựa vào những gì xảy ra những năm 70 và 80 khi có hai cú sốc về giá do nguồn cung dầu giảm", ông Nossek nói năm 2013.
"Cú sốc thứ nhất xảy ra vào thời điểm cấm vận dầu mỏ OPEC những năm 70 và cú sốc thứ 2 là cách mạng ở Iran năm 1980. Hai cú sốc này khiến giá vàng tăng mạnh do giá dầu tăng được phản ánh vào CPI. Đó là khi chúng ta mới xóa bỏ bản vị vàng, chính sách của ngân hàng trung ương chuyển theo một hướng mới và tiền tệ được thả nổi thay vì được ấn định như trước đó. Cũng kể từ đó không có giai đoạn nào lạm phát quá cao", ông Nossek dẫn chứng thêm.
Thứ ba, giá vàng ảnh hưởng đến các quốc gia nhập khẩu và xuất khẩu vàng. Giá trị tiền tệ của một quốc gia gắn chặt với giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Giá vàng tăng có thể tạo ra thặng dư thương mại hoặc giúp bù đắp thâm hụt thương mại. Ngược lại, các nước nhập khẩu vàng lớn chắc chắn sẽ có đồng tiền yếu hơn khi giá vàng tăng. Ví dụ, các quốc gia chuyên sản xuất các sản phẩm làm bằng vàng, nhưng thiếu nguồn dự trữ của mình, sẽ là những nước nhập khẩu vàng lớn. Do đó, giá vàng ở đây dễ bị tăng.
MỎ VÀNG THẾ GIỚI SẼ CẠN KIỆT TRONG 2 THẬP KỶ TỚI?
Với tầm tối quan trọng của vàng đối với nền kinh tế các quốc gia và nền kinh tế thế giới nói chung, một vấn đề lo lắng được đặt ra: Điều gì xảy ra nếu dự trữ vàng cạn kiệt?
Trên thực tế, nguồn dự trữ vàng trên thế giới đang giảm dần và có nguy cơ bị cạn kiệt, trong khi nhu cầu toàn cầu không ngừng tăng lên.
Báo cáo mới nhất của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho hay sự gia tăng của lạm phát toàn cầu, sự bất ổn trên thị trường tài chính và mới nhất là căng thẳng Nga - Ukraine đã khiến nhu cầu vàng trên toàn cầu tăng đột biến. Theo số liệu do hội đồng công bố, nhu cầu đối với vàng đã tăng 10% vào năm 2021. Nhu cầu vàng đạt 1.147 tấn trong quý cuối cùng của năm 2021, mức cao nhất kể từ quý II/2019 và gần 50% trong năm - tăng so với cùng kỳ năm trước.
Louise Street - nhà phân tích của WGC - gọi 2021 là "năm của vàng" mặc dù giá vàng thực tế giảm nhẹ tính theo đồng USD.
Theo báo cáo, tổng nhu cầu vàng tăng từ 3.658 tấn lên 4.021 tấn và nhu cầu sử dụng vàng trong sản xuất đồ trang sức tăng 67% so với năm 2020. Mặt khác, việc sử dụng vàng trong các ngành như sản xuất máy tính xách tay và điện thoại thông minh cũng đã tăng 9%, lên 330 tấn.
Trong suốt lịch sử, tổng cộng 201.296 tấn vàng đã được khai thác và ước tính gần đây nhất vào năm 2020 cho rằng 53.000 tấn vàng vẫn còn trong trữ lượng dưới lòng đất, trong khi một số nguồn cho rằng con số đó là khoảng 63.000 tấn.
Vào cuối năm 2020, một tiết lộ cho biết trữ lượng vàng dưới lòng đất sẽ cạn kiệt trong 18 năm tới, trừ khi phát hiện được những mỏ vàng mới. Trước thực tế này, báo cáo tương tự của WGC nhấn mạnh nhu cầu của các ngân hàng trung ương khi họ vẫn mua ròng vàng trong 12 năm liên tiếp. Các ngân hàng trung ương của cả các nước phát triển và mới nổi đã tăng thêm 463 tấn vào lượng nắm giữ của họ - nhiều hơn 82% so với năm 2020 trong khi nâng tổng tài sản toàn cầu lên mức cao nhất gần 30 năm.
Louise Street cho biết: "Cuộc chiến giằng co dai dẳng giữa lạm phát và tỷ giá tăng đã tạo ra một bức tranh trái chiều về nhu cầu vàng". "Lãi suất tăng đã thúc đẩy tâm lý thích mạo hiểm của một số nhà đầu tư, điều đó được phản ánh trong dòng vốn của quỹ hoán đổi danh mục (ETF). Mặt khác, việc tìm kiếm tài sản trú ẩn an toàn đã dẫn đến sự gia tăng mua vàng miếng và tiền xu, được thúc đẩy bởi hoạt động mua của ngân hàng trung ương," bà nói thêm.
VÌ SAO VÀNG LẠI QUÝ GIÁ?
Vàng là một nguyên tố hóa học tương đối hiếm và là kim loại quý. Vàng có màu vàng tươi, đỏ và đặc, mềm, dễ uốn.
Ngay từ đầu, vàng đã hấp dẫn các nền văn minh trên toàn thế giới và những nền văn minh đó hoàn toàn chưa từng tiếp xúc với nhau. Kể từ khi được phát hiện, vàng đã được coi một biểu tượng của vẻ đẹp, quyền lực, sự thuần khiết và thành tựu. Vẻ đẹp tự nhiên của vàng không chỉ khiến nó trở nên quý giá một cách bí ẩn mà còn có thể là kim loại hữu ích nhất trên thế giới.
Vì vàng là một trong những nguyên tố hóa học ít phản ứng nhất, dễ uốn, dẻo, chống ăn mòn và có thể dẫn điện nên nó có rất nhiều công dụng. Vàng được sử dụng làm đồ trang sức, đúc tiền và các nghệ thuật khác. Kim loại này được dùng trong việc che chắn tia hồng ngoại, sản xuất kính màu, dát vàng và phục hồi răng. Ngoài ra, vàng được sử dụng cho các đầu nối điện chống ăn mòn trong các thiết bị máy tính...