Nhìn lại chính sách tiền tệ - tài khóa: Song hành nhưng lạc điệu
(Dân trí) - Trong khi Thứ trưởng Đặng Huy Đông cho rằng, không nên để chính sách tiền tệ phải làm việc quá sức thì các chuyên gia đề xuất, trong chính sách tài khóa, có thể Chính phủ cần chấp nhận mất một số khoản thu, "cho" doanh nghiệp thay vì "cho nợ".
Tổng cầu suy kiệt, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu khiến chính sách tiền tệ ít có tác dụng trong bối cảnh hiện nay.
Tổng cầu suy kiệt vì chính sách "phóng nhanh phanh gấp"Theo quy định tại Luật ngân hàng, mục tiêu cao nhất và cuối cùng của chính sách tiền tệ (CSTT) hiện nay là ổn định giá trị đồng tiền thông qua điều chỉnh tỷ lệ lạm phát.
Tuy nhiên, TS.Nguyễn Thạc Hoát thuộc Học viện Chính sách và Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho rằng, những vấn đề còn tồn tại trong hoạch định chính sách nói chung và CSTT nói riêng vẫn bị động do công tác dự báo còn chưa chính xác và chưa kịp thời, kèm theo đó là tính ngắn hạn và tính chiến lược thấp của các chính sách.
Thực tế cho thấy, thời gian qua có sự chênh lệch quá lớn giữa mức lạm phát thực tế với chỉ tiêu lạm phát mục tiêu. Điều đó thể hiện kỳ vọng cao của Chính phủ đối với mức lạm phát, muốn ổn định nhanh kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, gây áp lực lớn cho điều hành CSTT, buộc phải sử dụng công cụ, các biện pháp hành chính, điều hành ngắn hạn, gây sốc cho nền kinh tế.
Theo đó, mức mục tiêu kìm giữ lạm phát dưới 7% trong năm 2011 là quá thấp so với mức lạm phát bình quân của 3 năm liền trước đó (12,73%).
Để đạt được mục tiêu này, NHNN đã buộc phải cắt giảm cung tiền và tăng trưởng tín dụng một cách đột ngột, gây ra những hệ quả không mong muốn như lãi suất cho vay và nợ xấu tăng cao, thanh khoản căng thẳng, thị trường chứng khoán suy kiệt, bất động sản đóng băng. Kết quả, lạm phát năm 2011 tăng vọt lên 18,13%.
TS Nguyễn Thạc Hoát chỉ ra rằng, trong điều hành, NHNN đã lựa chọn biến số tổng phương tiện thanh toán (M2) và mức tăng trưởng tín dụng làm mục tiêu trung gian của CSTT.
Kết quả điều hành M2 giai đoạn 2011-2012 theo xu hướng thực hiện sát với mục tiêu đề ra hơn nhiều giai đoạn trước đó. Tuy nhiên sự cắt giảm đột ngột và với mức độ giảm lớn M2 so với thực hiện bình quân giai đoạn 2004-2010 đã làm suy giảm nghiêm trọng tổng cầu của nền kinh tế, phát sinh thêm những khó khăn cho kinh tế vĩ mô.
Mức tăng trưởng M2 trung bình khoảng 31,17% và tăng trưởng tín dụng 35,17% trong giai đoạn 2004-2010 đã tạo nên hệ lụy cho 2 năm gần đây. Nếu giai đoạn 2004-2012, trong 9 năm đã xảy ra 3 vòng xoáy lạm phát thì đến năm 2012 lạm phát chỉ ở mức 6,81%, tăng trưởng tín dụng thấp chỉ ở mức 7%. Mặc dù là một thành tựu đáng ghi nhận song sự thay đổi chính sách đột ngột này lại làm suy kiệt tín dụng, tác động bất lợi cho nền kinh tế và ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng cho các năm sau.
"Nếu tỷ lệ lạm phát 2012 ở mức 9% thì hiệu quả của chính sách tiền tệ đạt được sẽ cao hơn rất nhiều" - đại diện nhóm nghiên cứu thuộc Bộ KHĐT nhìn nhận.
Theo nhóm nghiên cứu, xu hướng suy giảm tín dụng quá mức có nguyên nhân của điều hành CSTT và khó khăn từ nền kinh tế. Cụ thể, cơ chế lãi suất cho vay chưa hiệu quả, chậm được điều chỉnh theo diễn biến CPI; trong khi đó, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế lại suy giảm mạnh.
Còn theo TS. Trịnh Quang Anh, Ngân hàng Hàng Hải (Maritime Bank), công cụ lãi suất đã phát huy hiệu quả trong năm 2011, với việc nâng lãi suất, thu hút lượng tiền mặt lưu hành đã góp phần điều chỉnh giảm tổng cầu dẫn đến giảm lạm phát.
Tuy nhiên, theo các số liệu kinh tế những năm qua cho thấy chu kỳ lặp lại cứ sau 1 đợt tăng trưởng tín dụng lại xuất hiện nguy cơ lạm phát tăng cao với quy luật trong vòng 6 tháng. Do vậy, ông cảnh báo, nguy cơ lạm phát trở lại năm 2013 là hoàn toàn có thể xảy ra.
Ngoài ra, ông Anh cũng ghi nhận, năm 2012 chứng kiến sự chuyển dịch từ đầu tư ngoại tệ sang nội tệ, đây là một dấu hiệu tốt đối với đồng tiền Việt Nam tuy nhiên lại gây ra tình trạng xấu đối với tín dụng ngoại tệ.
Có thể phải chấp nhận "cho" doanh nghiệp vốn thay vì "cho nợ"
Trong năm 2012, CSTK phải đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải, từ thâm hụt NSNN, nợ công, tác động của chính sách quản lý giá cả đến NSNN nói riêng, đến ổn định kinh tế vĩ mô nói chung.
TS Vũ Đình Ánh (Ảnh: ĐT).
TS Vũ Đình Ánh cho rằng, cần thay đổi tư duy về điều hành CSTK của Việt Nam. Nếu chỉ kỳ vọng CSTK hoàn thành nhiệm vụ thu chi NSNN và đảm bảo thâm hụt NSNN dưới mức cho phép thì thực tế CSTK không thể kết hợp với CSTT trong điều hành kinh tế vĩ mô.
Theo ông, "nếu cứ nói hỗ trợ doanh nghiệp mà lại cứ lo bị giảm nguồn thu thì sẽ không có sự hỗ trợ thực sự".
Hiện tại, NSNN đang dựa trên 3 nguồn thu chính bao gồm các nguồn thu trong nước, từ hoạt động xuất nhập khẩu, từ dầu thô và từ thị trường bất động sản.
Sang năm tới, Bộ Tài chính đã chủ động đề xuất một số giải pháp "mạnh" như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hoàn thuế bảo vệ môi trường cho túi ni lông, tiếp tục gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, giảm tiền thuê đất...
Song, nhiều ý kiến góp ý, đây thực chất vẫn là những khoản cho doanh nghiệp nợ và doanh nghiệp đã khó khăn không có doanh thu không có lợi nhuận thì coi như không được hỗ trợ gì. Do vậy, nếu có thể, Chính phủ sẽ phải chấp nhận không thu một số khoản coi như "cho" doanh nghiệp thay vì "cho nợ" mới mong vực dậy được sản xuất.
TS.Đặng Ngọc Đức, Phó Viện trưởng Viện Tài chính - Ngân hàng (Đại học Kinh tế quốc dân) thì lại đánh giá, khi chính sách tiền tệ đang hướng đến hỗ trợ sản xuất kinh doanh thì tài khóa tăng thuế phí. Điều này cho thấy, giữa hoạt động điều hành 2 chính sách vẫn còn những bất cập.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông đặt câu hỏi, phải chăng chính sách tiền tệ và tài khoá không song hành, hoặc có song hành nhưng không đều bước? Đồng thời, ông cũng đưa ra quan điểm, giữa bối cảnh kinh tế đang ốm yếu như hiện tại thì chỉ chính sách tiền tệ sẽ không thể có hiệu quả. Vì vậy, ông cho rằng, "đừng bắt chính sách tiền tệ làm việc quá sức!".
Để nền kinh tế hoạt động hiệu quả, không thể đòi hỏi hai chính sách tiền tệ và tài khóa cùng song hành thực hiện những mục tiêu mâu thuẫn nhau. Giai đoạn 2013 – 2015, chính sách tài khóa - tiền tệ cần hướng đến kiểm soát chặt chẽ các yếu tố gây lạm phát cao từ phía tổng cầu và các yếu tố tác động làm suy giảm tổng cầu quá mức. Qua đó, mới đảm bảo quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng thành công.
Mặt khác phải kiểm soát các yếu tố gây đột biến lạm phát từ chi phí đẩy, đặc biệt là lộ trình điều chỉnh hợp lý giá các ngành hàng, dịch vụ từ giá bao cấp sang giá thị trường.
Bích Diệp