Kênh đầu tư nào nguy hiểm nhất trong năm 2012?

(Dân trí) - Chứng khoán đang vùng vẫy ở vùng đáy, còn vàng đang lơ lửng ở vùng đỉnh. Cả hai thị trường này đều bị đe dọa về thanh khoản. Hẳn nhà đầu tư sẽ có thêm cơ sở để rút ra kết luận về nơi nào cần rút tiền.

Những ẩn số suy thoái

 

Năm 2011 đã gần trôi qua với câu hỏi chưa từng được mãn nguyện: chọn kênh đầu tư nào có hiệu quả?

 

Thị trường kinh doanh mang tính đại chúng tựu trung vẫn chỉ có 5 kênh đầu tư: vàng, ngoại tệ, gửi ngân hàng, chứng khoán và bất động sản. Nhưng tính thách đố quá mức của năm nay đã khiến cho việc giải bài toán bỏ tiền vào đâu của năm sau trở nên rất phức tạp.
 
Kênh đầu tư nào nguy hiểm nhất trong năm 2012? - 1
(Ảnh minh họa)

 

Không chỉ một hoặc hai ẩn số, mà phương trình đầu tư có đến năm ẩn số.

 

Bối cảnh chung là một sắc màu u ám ở hầu hết các kênh. Không thể cứ mãi duy lý thuyết của kinh tế học vĩ mô về lợi thế so sánh hay tận dụng cơ hội rủi ro để dễ làm giàu, mà phải căn cứ vào tình hình thực tế.

 

Không gì rõ ràng hơn là năm 2011 đã biểu thị cho khoảng thời gian mà nền kinh tế Việt Nam chìm trong suy thoái. Vào đầu năm, xảy ra đồng thời với cuộc “cách mạng hoa nhài” bất thần ở Bắc Phi và sau đó lan sang vùng Trung Đông, nền kinh tế nước ta cũng gánh chịu một cuộc “cách mạng” với tính chất khác: chỉ số lạm phát bất ngờ tăng tốc.

 

Thật ra những điều kiện khởi nguồn cho lạm phát đã hội tụ từ quý 4 năm 2010. Nhưng chỉ đến giữa năm 2011, người ta mới kịp nhận ra là đã có đến gần 50.000 doanh nghiệp lâm vào cảnh phá sản – một con số vượt gấp đôi so với cùng kỳ năm 2010. Mà con số 50.000 doanh nghiệp đó mới chỉ mang tính thống kê chính thức.

 

Hệ quả của phá sản là nạn thất nghiệp. Mặc dù đã không có một thống kê đủ thuyết phục nào được công bố về tỷ lệ thất nghiệp thực tế ở Việt Nam, song điều dễ nhận thấy là dạng thất nghiệp bán thời gian là rất phổ biến.

 

Nguyên nhân và cũng là hệ quả của tình trạng trên là giá cả các loại hàng hóa chính như thực phẩm, xăng dầu, điện… cùng lãi suất cho vay tại ngân hàng leo thang đến mức khó tả. Với đa số doanh nghiệp Việt Nam thuộc loại vừa và nhỏ, đã khó có nhiều doanh nghiệp đạt được tỷ lệ lợi nhuận sau thuế ở mức 20% để có thể gồng mình vay mượn ngân hàng với lãi suất 25-27%.

 

Thế bế tắc của khối doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là “điểm chết” đối với kênh đầu tư hàng hóa chuyên dùng – một kênh không được xem là phổ thông.

 

Chứng khoán?

 

Tuy nhiên, trên tất cả và đặc biệt nguy hiểm chính là kênh đầu tư vào chứng khoán. Nếu vào cuối năm 2010, chỉ số chứng khoán sàn Hà Nội (HNX) còn giữ được vùng trên 100 điểm thì đến tháng 12/2011, chỉ số này đã sụt giảm gần 50%. Đó là một tỷ lệ quà lớn nếu so với tình hình vận hành của các TTCK ở châu Á.

 

HNX lại mang tính đại diện, đại diện một cách thực chất cho TTCK Việt Nam, chứ không phải là chỉ số VNI từ hơn một năm qua đã bị thao túng và do đó bị làm cho biến dạng triệt để bởi những cổ phiếu có vốn hóa siêu lớn như BVH, VIC, MSN, VNM.

 

Các nhà đầu tư vào kênh chứng khoán từ đầu năm 2011 đến nay đã nhận lãnh thất bại không còn gì để bàn cãi. Chỉ số giảm một nửa, nhưng giá nhiều cổ phiếu vừa và nhỏ, kể cả một số bluechip đã mất đến 70-80%. Không chỉ khủng hoảng trên sàn Hà Nội, rất nhiều cổ phiếu vừa và nhỏ trên sàn TP.HCM cũng chịu chung số phận thê thiết như thế.

 

Từ cả năm nay, nhiều lần giới phân tích và các nhà đầu tư tranh luận không ngớt về hiện trạng của chỉ số chứng khoán trên hai sàn đã đủ cho chúng lập đáy hay chưa. Nhiều kỳ vọng về đáy đã hình thành. Nhưng cũng như bong bóng xà phòng, hy vọng ấy mau chóng bị tan vỡ khi chỉ số tiếp tục phá đáy cũ, lập đáy mới.

 

Song từ giữa năm 2011 đến nay, ngoài hậu quả lao dốc về điểm số và mất giá cổ  phiếu, TTCK còn mang trên mình một tai họa khác: thanh khoản. Ban đầu chỉ là hiện tượng một số cổ phiếu nhỏ dần cạn kiệt lượng giao dịch. Nhưng sau đó, cơn bão này mạnh hẳn lên và lan đến hàng trăm cổ phiếu khác.

 

Hiện tượng cạn kiệt và dẫn đến mất thanh khoản lại từ nhóm cổ phiếu tràn sang khối công ty chứng khoán. Đến đây, vở bi kịch mới bắt đầu màn thê lương nhất của nó. SME là công ty chứng khoán đầu tiên bị vét sạch tiền - đầu tiên là tiền phải trả nợ cho ngân hàng, sau đó là thiếu tiền thanh toán cho khách hàng. Sau SME là công ty chứng khoán Tràng An (TAS), rồi tới công ty chứng khoán Đông Dương…

 

Không khó khăn gì để hình dung ra kịch bản mất thanh khoản sẽ còn hành hạ nhiều công ty chứng khoán nhỏ và vừa khác. Mối nguy của thị trường này đã lớn gấp đôi thị trường bất động sản khu vực phía Nam. Bởi đơn giản là thị trường BĐS, dù quá eo hẹp về giao dịch nhưng mặt bằng giá lại không bị giảm kinh hoàng như TTCK.

 

Vào những ngày cuối năm 2011, vẫn chưa có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy năm 2012 sẽ là giai đoạn phục hồi của TTCK. Bởi thế, việc chọn lựa đầu tư vào thị trường này trong năm sau vẫn mang tính hiểm nguy không nhỏ.

 

Kênh nào hiểm nguy nhất?

 

Đó cũng là lý do vì sao nên chọn lựa một phương án triết lý khác trong đầu tư. Thay vì cố gắng tìm ra kênh đầu tư nào hiệu quả nhất theo cách nhìn từ trên xuống dưới, có lẽ nhà đầu tư lại cần suy nghĩ theo quy trình ngược lại – nhìn từ duới lên trên, với việc xác định kênh đầu tư nào có độ rủi ro nhất, cần tránh né nhất trong năm 2012.

 

Nhưng chứng khoán có phải là kênh rủi ro nhất trong tất cả các kênh có thể đầu tư? Cần suy nghĩ về chọn lựa này một cách nghiêm túc.

 

Nói gì thì nói, TTCK cũng đã giảm chưa từng thấy, đưa Việt Nam trở thành một trong ba TTCK, cùng với Hy Lạp và Síp ở châu Âu, có thực tế lẫn triển vọng u ám nhất trên thế giới.

 

Tuy nhiên, nếu chỉ xét về mặt bằng giá thì có thể khẳng định là giá của rất nhiều cổ phiếu trên TTCK Việt Nam đang ở vùng đáy. Vùng đáy này không biểu thị cho sự phục hồi mau chóng của chúng, nhưng ít nhất, cùng với tính thanh khoản cạn kiệt, cũng khiến chúng khó giảm mạnh trong thời gian tới.

 

Trong khi đó, ở một thái cực hoàn toàn ngược lại, vàng đang trở thành một ẩn số khó hiểu nhất.

 

Khác hẳn với chứng khoán, đến quý 3 năm 2011, giá vàng trong nước đã lập đỉnh cao nhất từ 11 năm qua, tính từ mốc năm 2000. Cũng trong 11 năm qua, trong khi giá vàng thế giới tăng 7,6 lần thì giá vàng trong nước đã tăng vọt đến chẵn 10 lần. Tỷ lệ này thậm chí còn vượt trên cả chỉ số tăng của BĐS.

 

Vậy xu thế giá vàng trong nước sẽ biến động ra sao trong thời gian tới?

 

Ai cũng biết giá vàng trong nước phụ thuộc cơ bản vào giá vàng thế giới. Nhưng giá vàng trong nước cũng đang lệ thuộc vào chính sách quản lý kinh doanh vàng – một yếu tố mới xuất hiện từ khoảng 4 tháng nay ở Việt Nam.

 

Trên thị trường quốc tế, hiện thời vẫn có hai luồng quan điểm về xu hướng của giá vàng. Một cách nhìn thiên về thái độ lạc quan. Morgan Stanley, một ngân hàng lớn của Mỹ, vẫn cho rằng trong năm 2012 giá vàng có thể đạt đến 2.200 USD/oz. Thậm chí, còn khá nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng giá vàng chỉ có tăng mà không thể giảm, về dài hạn có đến vươn lên mức 4.000 hoặc 6.000 USD/oz.

 

Còn ở cách nhìn ngược lại, một số nhà phân tích lại xem giá vàng thế giới đã thực sự lập đỉnh 1.900 USD/oz vào tháng 8/2011. Nếu cách nhìn này là đúng thì không loại trừ sẽ xuất hiện hiện tượng bong bóng vàng, hay chính xác hơn là sẽ có thể xảy ra một vụ nổ bong bóng vàng, đưa vàng thế giới về vùng giá 1.500 USD/oz, thậm chí còn thấp hơn nhiều – 1.200 USD/oz hoặc 1.000 USD/oz.

 

Vào quý 4/2011, giá vàng thế giới lại phụ thuộc cơ bản vào đường đi của TTCK Mỹ. Với những gì mà chỉ số chứng khoán Dow Jones đang thể hiện, có hy vọng là TTCK Mỹ sẽ không bị sụt giảm quá mạnh trong ít ra 6 tháng tới, và điều đó cũng củng cố cho các ngưỡng hỗ trợ của giá vàng.

 

Nhưng nếu trong những tháng tới, TTCK thế giới lâm vào tình cảnh biến động mạnh và lao dốc, thân phận của giá vàng sẽ ra sao?

 

Hơn thế, chính sách “siết” thanh khoản của kinh doanh vàng miếng đang được Ngân hàng nhà nước Việt Nam tiến hành, đã dần co hẹp lượng giao dịch trên thị trường vàng trong nước. Cho tới nay, điều ngạc nhiên là hiện tượng “biến mất” của vàng miếng thuộc những thương hiệu truyền thống và nổi tiếng như Rồng Vàng Thăng Long, một khả năng mà chỉ mới cuối quý 3 năm 2011 đã chẳng có mấy nhà đầu tư và người tiêu dùng nào hình dung ra.

 

Rõ ràng trong con mắt của Nhà nước, thị trường kinh doanh vàng miếng không cần được ưu đãi. Thậm chí ngược lại, rủi ro “đóng cửa” đối với thị trường này luôn chực chờ, đi kèm với một chính sách bất ngờ nào đó từ phía Ngân hàng nhà nước.

 

Và cũng gần như TTCK, thị trường vàng đang phải đối mặt với nguy cơ hụt thanh khoản. Mới đầu là thiếu thanh khoản tại một số thương hiệu vàng. Nhưng không có gì bảo đảm là ngay cả vàng miếng thương hiệu SJC cũng có thể cầm cự được về thanh khoản cho đến tháng 5/2012 -thời điểm mà công cuộc “tái cấu trúc” 12.000 cơ sở kinh doanh vàng được hiểu là sẽ cơ bản hoàn thành.

 

Chứng khoán đang vùng vẫy ở vùng đáy, còn vàng đang lơ lửng ở vùng đỉnh. Cả hai thị trường này đều bị đe dọa về thanh khoản.

 

Hẳn nhà đầu tư sẽ có thêm cơ sở để rút ra kết luận về nơi nào cần rút tiền.

Hà Giang

Thông tin doanh nghiệp - sản phẩm