1. Dòng sự kiện:
  2. Hàng giá rẻ Trung Quốc đổ bộ

Kinh tế Mỹ:

Giá nhân công giảm - toàn cầu hóa không phải là thủ phạm

(Dân trí) - Làn sóng đòi hỏi bảo hộ và dựng lên các rào cản với toàn cầu hóa một lần nữa lại rộ lên tại Mỹ trong bối cảnh thị trường lao động đang chịu nhiều áp lực. Thế nhưng nguyên nhân thực sự có phải do toàn cầu hóa?

Trong bài viết đăng trên Finance Time, Jagdish Bhagwati đã tổng kết  một số lập luận  chỉ ra nguyên nhân thực chất nằm ở tiến bộ công nghệ. Jagdish Bhagwati là giáo sư của trường đại học Columbia, thành viên cao cấp của Ủy ban Đối ngoại Mỹ,  tác giả của cuốn sách Bào chữa cho toàn cầu hóa.

Chúng ta hiện đang phải nghe hàng ngày vô số những ý kiến về tình trạng suy thoái dài hạn của tiền lương lao động. Nhiều người tin rằng sinh kế trong tương lai của tầng lớp trung lưu đang bị đe dọa.

 

Lou Dobbs [i] của CNN, nhóm nghiên cứu việc làm của Viện Chính sách Kinh tế và gần như toàn bộ thành viên Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử Quốc hội mới đây đều tin rằng toàn cầu hóa đã gây ra những thiệt hại kinh tế cho thị trường việc làm và tầng lớp trung lưu. Do vậy trong vấn đề này, tất cả đều thống nhất ý kiến muốn dựng nên những rào cản - thậm chí đóng hẳn cửa – quan hệ thương mại với những nước nghèo và trong một số trường hợp là với lực lượng lao động thiếu kỹ năng di cư từ những nước này.

 

Những người ủng hộ toàn cầu hóa, tuy nhiên lại tỏ ra đuối lý: họ thường lập luận vòng vo rồi thừa nhận những ý kiến chỉ trích với toàn cầu hóa – mặt khác lại cho rằng phải chấp nhận những tác động không mong muốn đó của toàn cầu hóa song sẽ thu được những lợi ích để đương đầu với những khó khăn đó bằng những cách khác.

 

Trên thực tế, những lý lẽ của những ủng hộ viên của toàn cầu hóa vững vàng hơn là họ tưởng.  Đã có những nghiên cứu kiểm tra lại những lập luận vẫn thường liên kết toàn cầu hóa với các thiệt hại.

 

Thứ nhất, tất cả những nghiên cứu thực nghiệm, bao gồm những nghiên cứu được thực hiện bởi những nhà kinh tế học hàng đầu hiện nay (như Paul Krugman ở đại học Princeton và Robert Feenstra của đại học California), chỉ ra rằng những tác động không mong muốn của thương mại lên tiền lương lao động là rất không đáng kể. Kết quả thực nghiệm của chính Jagdish Bhagwati cũng đưa đến kết luận rằng tác động của thương mại với các nước nghèo có lẽ thậm chí đã kiểm soát áp lực giảm giá nhân công nhờ vào tốc độ thay đổi mau lẹ của những công nghệ thay thế cho các loại lao động giản đơn.

 

Thứ hai, các kết quả kinh tế lượng của các nhà kinh tế lao động hàng đầu khi nghiên cứu các dòng di cư của các lao động thiếu kỹ năng vào Mỹ cũng cho các kết quả tương tự. Nghiên cứu gần đây nhất của George Borjas và Larry Katz ở đại học Havard cũng chỉ ra tác động rất mờ nhạt lên tiền lương lao động.

 

Liệu có thể quá trình toàn cầu hóa đã làm giảm khả năng mặc cả của người lao động và do vậy tạo áp lực giảm tiền công lao động? Điều này thực sự đáng ngờ. Thứ nhất, lập luận này không xác đáng khi người sử dụng lao động và người lao động đều ở trong một thị trường cạnh tranh và người lao động được trả tiền thôi việc.

 

Có một thực tế là hơn 10% lao động trong khu vực tư nhân của Mỹ là thành viên của nghiệp đoàn.

 

Thứ hai, nếu nói rằng việc thúc đấy toàn cầu hóa đã làm giảm liên kết giữa các thành viên, điều này cũng đáng ngờ. Tình trạng mất đoàn kết đã diễn ra trong hơn hai thập kỷ qua toàn cầu hóa vừa qua mà không cho thấy có mặt tác nhân thúc đẩy có ý nghĩa nào suốt hai thập kỷ qua và được quy cho những điều khoản không có lợi cho nghiệp đoàn của điều luật già cỗi hơn nửa thế kỷ Taft-Hartley[ii] làm tê liệt khả năng yêu sách.

 

Liệu dòng vốn chảy ra ngoài qua các khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có làm giảm lượng vốn có thể dùng để hỗ trợ việc làm cho những lao động thiếu kỹ năng trong nước và do vậy góp phần làm giảm giá nhân công? Nhìn vào dữ liệu, nước Mỹ đã nhận dòng đầu tư thông qua cổ phiếu cũng nhiều như nó đã mẩt ra ngoài trong hai thập kỷ qua. Rõ ràng là không thể xem xét vấn đề một cách phiến diện.

 

Thủ phạm không phải là toàn cầu hóa mà chính là những thay đổi trong công nghệ đã tiết kiệm sức lao động và đặt áp lực lên tiến lương của những lao động không đòi hỏi kỹ năng. Tiến bộ công nghệ liên tục thúc đẩy các tổ chức kinh tế trong việc sử dụng lao động thiếu kỹ năng. Có nhiều luận chứng dựa trên thực nghiệm và những bằng chứng cho vấn đề này. Một ví dụ thường được dẫn ra từ phimcủa Charlie Chaplin, phim Thời Hiện đại. Hãy nhớ lại anh công nhân đã cáu tiết thế nào với dây chuyển lắp ráp, chuyển động máy móc và cuối cùng thao tác vặn ốc xâm chiếm hoàn toàn anh ta.  Ngày nay có những dây chuyền lắp ráp thậm chí không có cả công nhân. Hệ thống được máy tính quản lý trong một buồng kính phía trên, với những kỹ sư có trình độ cao chịu trách nhiệm kiểm soát.

 

Thay đổi công nghệ đang mở rộng nhanh chóng trên cả hệ thống. Điều này một cách tự nhiên tạo ra, trong ngắn hạn, áp lực về công ăn việc làm của thế hệ lao động đang bị thay thế.

 

Nhưng chúng ta cũng biết qua kinh nghiệp từ hai thập kỷ qua rằng chúng ta thường có đường cong phát triển dưới dạng chữ J ở đây, khi việc tăng năng suất được đảm bảo, nó sẽ đẩy mức lương lao động cao lên, ngoại trừ những trường hợp xuất hiện những khó khăn về mặt vĩ mô.

 

Vậy tại sao trong các thống kê về lương lao động trong gần suốt 2 thập kỷ qua cho thấy những hiệu quả rõ rệt .

 

Tôi ngờ rằng câu trả lời nằm trong cường độ thay thế của lao động ít kỹ năng do sự thay đổi từ nền tảng với công nghệ thông tin và trên thực tế quá trình này hiện nay vẫn đang tiếp tục – không giống như sự thay đổi ngắt quãng trong quá khứ như với kỹ nghệ đầu máy hơi nước. Trước khi thị trường lao động đuổi kịp gia đoạn tăng lên trong đường cong chữ J, nó lại đã rơi vào một chu kỳ thay đổi công nghệ mới, cho nên những lớp lao động đó lại rơi vào đoạn giảm của một đường cong chữ J khác.

 

Áp lực lên tiền lương đang trở nên tàn nhẫn, duy trì trong những giai đoạn lâu hơn kinh nghiệm trước đó với những thay đổi về công nghệ đã giảm bớt các lao động không cần kỹ năng. Những thay đổi công nghệ này, liên tiếp và không ngừng nghỉ, không có gì để làm với toàn cầu hóa.

 

[i] Lou Dobbs là nhà phân tích và là người phụ trách mục thị trường tài chính của kênh truyền hình CNN.

[ii] Điều luật Taft-Hartley là tên gọi thông dụng của Điều luật về quan hệ quản lý-lao động, là một luật của Mỹ có phạm vi toàn liên bang giới hạn ngặt nghèo các hoạt động và quyền lực của các nghiệp đoàn lao động. Điều luật này được Thượng nghị sĩ Robert Taft và Hạ nghị sĩ Fred A. Hartley vận động đưa vào và ủng hộ nhiệt thành. Tổng thống Harry S. Truman từng mô tả điều luật này như  một luật về những nô lệ và coi nó “chống lại những nguyên tắc quan trọng của một xã hội dân chủ.” Tuy nhiên bất chấp sự phủ quyết của Truman, năm 1947, điều luậtnày vẫn được Quốc hội thông qua và bổ sung vào Luật Quan hệ Lao động Quốc gia (NLRA).

 

Trương Trí Vĩnh (dịch)
Theo Finance Time

Thông tin doanh nghiệp - sản phẩm