GDP đầu người Việt Nam 3.000 USD vào năm 2020?
(Dân trí) - Để đưa xếp hạng tín nhiệm tối thiểu bằng mức khởi điểm đầu tư, Việt Nam đặt mục tiêu cụ thể, đến năm 2020, GDP theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD.
Theo Đề án nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia được Thủ tướng Chính phủ mới phê duyệt, đến 2020, xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam sẽ tối thiểu bằng mức khởi điểm đầu tư (Baa3 đối với xếp hạng tín nhiệm của Moody’s hoặc BBB- đối với xếp hạng tín nhiệm của S&P hoặc Fitch).
Tại Đề án, một loạt chỉ tiêu cụ thể đã đưa ra để đạt mục tiêu trên cũng như nâng cao nội lực của nền kinh tế.
Theo đó, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7-8%/năm trong giai đoạn 2011-2020. Đến năm 2020, GDP theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD.
Đồng thời, tiếp tục xử lý tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư; có chính sách khuyến khích tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tỷ trọng đầu tư toàn xã hội duy trì trong khoảng từ 33-35% GDP, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư công, phấn đấu đưa chỉ số ICOR về mức trung bình so với các nước có cùng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Đề án cũng đưa ra mục tiêu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 11-12%/năm trong giai đoạn 2011-2020, trong đó giai đoạn 2011-2015 tăng trưởng bình quân 12%/năm; giai đoạn 2016-2020 tăng trưởng bình quân 11%/năm.
Thâm hụt thương mại sẽ được thu hẹp dần và kiểm soát nhập siêu ở mức dưới 10% kim ngạch xuất khẩu vào năm 2015, tiến tới cân bằng cán cân thương mại vào năm 2020.
Trong khi đó, chỉ số giá tiêu dùng phấn đấu chỉ tăng khoảng 5-7% vào năm 2015 và được tiếp tục duy trì ở mức hợp lý trong giai đoạn 2016-2020.
Đề án cũng nêu mục tiêu phấn đấu giảm thâm hụt cán cân vãng lai, ổn định cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và tiến tới thặng dư. Tăng mức dự trữ ngoại hối nhà nước đạt ít nhất 12 tuần nhập khẩu, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và đạt mức mức trung bình so với các nước có cùng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước giảm xuống dưới 4,5% GDP vào năm 2015 và khoảng 4% GDP trong giai đoạn 2016-2020.
Ngoài ra, nợ công (bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương) đến năm 2020 không quá 65% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP; nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
Qua Đề án, Thủ tướng yêu cầu trong điều hành, các cơ quan chức năng thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt; chính sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả; thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của nhà nước đối với một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu.
Trong đó, Việt Nam sẽ kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay các lĩnh vực không khuyến khích ở mức độ hợp lý và hạn chế nợ xấu. Cơ cấu chi ngân sách nhà nước sẽ theo hướng tăng cường đầu tư cho con người, gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Rà soát, sắp xếp lại danh mục đầu tư, kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tập trung vốn cho các dự án cấp thiết, sớm hoàn thành, ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực, dự án có tác động lan tỏa cao, tạo ra tiền đề để tái cơ cấu nền kinh tế.
Chính sách nhà nước tôn trọng quyền tự định giá, thoả thuận giá, cạnh tranh về giá của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật. Công khai, minh bạch giá các hàng hóa, dịch vụ, đi đôi với các giải pháp hỗ trợ hợp lý cho sản xuất gặp khó khăn và thực hiệc chính sách an sinh xã hội trong từng giai đoạn.
Tại Đề án, một loạt chỉ tiêu cụ thể đã đưa ra để đạt mục tiêu trên cũng như nâng cao nội lực của nền kinh tế.
Theo đó, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7-8%/năm trong giai đoạn 2011-2020. Đến năm 2020, GDP theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD.
Đồng thời, tiếp tục xử lý tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư; có chính sách khuyến khích tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tỷ trọng đầu tư toàn xã hội duy trì trong khoảng từ 33-35% GDP, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư công, phấn đấu đưa chỉ số ICOR về mức trung bình so với các nước có cùng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Đến 2020, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
Đề án cũng đưa ra mục tiêu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 11-12%/năm trong giai đoạn 2011-2020, trong đó giai đoạn 2011-2015 tăng trưởng bình quân 12%/năm; giai đoạn 2016-2020 tăng trưởng bình quân 11%/năm.
Thâm hụt thương mại sẽ được thu hẹp dần và kiểm soát nhập siêu ở mức dưới 10% kim ngạch xuất khẩu vào năm 2015, tiến tới cân bằng cán cân thương mại vào năm 2020.
Trong khi đó, chỉ số giá tiêu dùng phấn đấu chỉ tăng khoảng 5-7% vào năm 2015 và được tiếp tục duy trì ở mức hợp lý trong giai đoạn 2016-2020.
Đề án cũng nêu mục tiêu phấn đấu giảm thâm hụt cán cân vãng lai, ổn định cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và tiến tới thặng dư. Tăng mức dự trữ ngoại hối nhà nước đạt ít nhất 12 tuần nhập khẩu, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và đạt mức mức trung bình so với các nước có cùng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước giảm xuống dưới 4,5% GDP vào năm 2015 và khoảng 4% GDP trong giai đoạn 2016-2020.
Ngoài ra, nợ công (bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương) đến năm 2020 không quá 65% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP; nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
Qua Đề án, Thủ tướng yêu cầu trong điều hành, các cơ quan chức năng thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt; chính sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả; thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của nhà nước đối với một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu.
Trong đó, Việt Nam sẽ kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay các lĩnh vực không khuyến khích ở mức độ hợp lý và hạn chế nợ xấu. Cơ cấu chi ngân sách nhà nước sẽ theo hướng tăng cường đầu tư cho con người, gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Rà soát, sắp xếp lại danh mục đầu tư, kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tập trung vốn cho các dự án cấp thiết, sớm hoàn thành, ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực, dự án có tác động lan tỏa cao, tạo ra tiền đề để tái cơ cấu nền kinh tế.
Chính sách nhà nước tôn trọng quyền tự định giá, thoả thuận giá, cạnh tranh về giá của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật. Công khai, minh bạch giá các hàng hóa, dịch vụ, đi đôi với các giải pháp hỗ trợ hợp lý cho sản xuất gặp khó khăn và thực hiệc chính sách an sinh xã hội trong từng giai đoạn.
Bích Diệp