Tỷ lệ trẻ em chưa bao giờ đi học đặc biệt cao ở nhóm dân tộc thiểu số
(Dân trí) - “Tỷ lệ trẻ em chưa bao giờ đi học khá cao, đặc biệt cao đối với một số nhóm dân tộc thiểu số. Chung cả nước có 2,57% trẻ em từ 5-17 tuổi chưa bao giờ đi học. Dân tộc Mông có tỷ lệ trẻ em từ 5-17 tuổi chưa bao giờ đi học cao nhất trong các nhóm dân tộc thiểu số chính, bằng 23,02%”.
Đây là con số được chỉ ra trong “Báo cáo Trẻ em ngoài nhà trường: nghiên cứu của Việt Nam”, được Bộ GD-ĐT và UNICEF công bố ngày 11/9.
“Qua nghiên cứu, lần đầu tiên thấy rõ và toàn diện vấn đề trẻ em ngoài nhà trường (TENNT) ở Việt Nam: số lượng, đặc điểm, các rào cản và vướng mắc, các gợi ý cho lập kế hoạch phát triển giáo dục, quản lý và xây dựng chính sách. Nghiên cứu góp phần giúp ngành giáo dục thúc đẩy phương pháp tiếp cận mới trong xây dựng chính sách giáo dục, từ đó tiếp tục hoàn thiện hệ thống số liệu để nắm thực trạng một cách kịp thời, toàn diện”, ông Nguyễn Vinh Hiển, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT phát biểu tại buổi lễ công bố.
“Tôi mong muốn Bộ GD-ĐT, cũng như các Sở GD-ĐT sử dụng tối đa các số liệu và khẩn trương đưa phân tích trong báo cáo này vào thực tiễn với các điều chỉnh chính sách giáo dục, cũng như các biện pháp quản lý trọng điểm”, ông Jesper Moller, Phó Đại diện UNICEF phát biểu.
Trao đổi với PV Dân trí, bà Nguyễn Thị Thanh Hương, UNICEF Việt Nam cho biết, báo cáo phân tích chung cả nước và 8 tỉnh, thành phố được chọn để phân tích cụ thể, gồm: Lào Cai, Điện Biên, Ninh Thuận, Kon Tum, Gia Lai, TP Hồ Chi Minh, Đồng Tháp va An Giang. Ngoài ra, khảo sát thực tế được thực hiện ở 6 trong số 8 tỉnh này để tăng cường phân tích rào cản và đề ra khuyến nghị của nghiên cứu.
Có sự khác biệt lớn về tỷ lệ TENNT độ tuổi 5 tuổi giữa các nhóm dân tộc. Tỷ lệ TENNT độ tuổi 5 tuổi thấp nhất là 3,26% ở dân tộc Mường, cao nhất là 37% ở dân tộc Khmer. Tỷ lệ này ở dân tộc Mông cũng rất cao, ở mức 34,49%. Hai nhóm dân tộc này có tỷ lệ TENNT độ tuổi 5 tuổi cao hơn dân tộc Kinh khoảng 3 lần và cứ 3 trẻ em 5 tuổi thì có 1 trẻ em không đi học.
Chênh lệch giới về tình trạng đi học độ tuổi tiểu học ở cấp quốc gia dường như rất nhỏ, trừ dân tộc Mông và nhóm trẻ em khuyết tật. Đến độ tuổi trung học cơ sở, sự chênh lệch giới trở nên rõ hơn, đặc biệt ở các nhóm dân tộc thiểu số, với tỷ lệ trẻ em trai không đến trường và tỷ lệ trẻ em trai thôi học đều cao hơn trẻ em gái, trừ dân tộc Mông và nhóm trẻ em di cư. Việc trẻ em trai có tỷ lệ đi học thấp hơn trẻ em gái ở các độ tuổi THCS có thể phản ảnh một vấn đề về chất lượng, như tính phù hợp của giáo dục đối với việc hình thành các kỹ năng hoặc tính phù hợp với trẻ em trai hoặc gái, nhìn dưới góc độ thuê lao động.
Tỷ lệ tảo hôn cao nhất là vùng Tây Bắc, sau đó đến Đông Bắc và Tây Nguyên là các vùng nghèo và đông đồng bào dân tộc thiểu số. Tảo hôn xảy ra nhiều hơn ở nhóm hộ nghèo hơn, ở những người có trình độ học vấn thấp hơn.
Báo cáo cũng đề ra khuyến nghị: Đối với vùng dân tộc thiểu số cần tiếp tục đầu tư trọng điểm, hỗ trợ giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số để có một số tấm gương tiêu biểu, từ đó làm nhân tố thúc đẩy động cơ học tập của người dân nói chung và trẻ em nói riêng. Đẩy mạnh tuyên truyền chống tảo hôn, đồng thời có biện pháp động viên những đối tượng này đi học trở lại.
Xây dựng chương trình ngắn hạn và dài hạn để đào tạo và tuyển đủ giáo viên là người dân tộc, giáo viên bản địa với những biện pháp phù hợp, ví dụ: cử tuyển, phân bổ, điều chuyển. Có chế độ phụ cấp lưu động cho những giáo viên, cán bộ quản lý công tác tại địa bàn vùng núi cao, có độ dốc lớn, có các điểm trường cách xa trung tâm. Xây dựng đủ nhà công vụ cho giáo viên ở những vùng khó khăn.
Sử dụng “Khung Khái niệm và Phương pháp luận về TENNT” của UNICEF và Viện Thống kê của UNESCO, Báo cáo “TENNT: Nghiên cứu của Việt Nam” do Bộ Giáo dục va Đào tạo chủ trì thực hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của UNICEF Việt Nam. Báo cáo phân tích thực trạng của TENNT ở độ tuổi 5-14 tuổi và trẻ em đang đi học tiểu học và THCS nhưng có nguy cơ bỏ học. Từ đó báo cáo đã đề ra các khuyến nghị để dỡ bỏ các rào cản này.
|