Trước giờ G thi tốt nghiệp: "Bí quyết" đạt điểm cao môn Ngữ văn
(Dân trí) - Chỉ còn vài ngày nữa, các em thực sự bước vào kì thi Tốt nghiệp THPT, với môn thi đầu tiên là môn Ngữ văn, áp lực với kì thi nói chung, với môn Ngữ văn nói riêng là không tránh khỏi.
Khóa 2k4 là khóa học trò chịu những tác động nặng nề nhất của đại dịch Covid-19 khi cả ba năm THPT các em đều phải trải qua những khoảng thời gian dài học online.
Chỉ còn vài ngày nữa, các em thực sự bước vào kì thi Tốt nghiệp THPT, với môn thi đầu tiên là môn Ngữ văn, áp lực với kì thi nói chung, với môn Ngữ văn nói riêng là không tránh khỏi.
Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm lúa sắp gặt, trái sắp chín, công sức bao lâu sắp hiện trong thành quả của một kì thi thành công, và cô chỉ muốn nhắc các em vài điều cụ thể sau đây:
1/ Thay vì lo lắng và áp lực, các em cần tích cực rà soát lại một lần nữa những đơn vị kiến thức cơ bản trong chương trình Ngữ văn lớp 12, ghi nhớ những giá trị nội dung và nghệ thuật chính của mỗi bài.
2/ Tự kiểm tra lại hệ thống kỹ năng đáp ứng từng kiểu loại câu hỏi trong đề thi. Các em nên ôn tập theo các đơn vị kiến thức cơ bản trong mô hình đề thi mấy năm nay với ba phần: kiểu bài Đọc hiểu / viết đoạn văn nghị luận xã hội / viết bài văn nghị luận văn học.
Phần Đọc hiểu luôn gồm một ngữ liệu đọc hiểu và 4 câu hỏi đọc hiểu được sắp xếp theo các cấp độ nhận thức từ nhận biết, thông hiểu, vận dụng tới vận dụng cao.
Các em cần nhận ra những tín hiệu của từng kiểu loại câu hỏi để có phương pháp trả lời phù hợp, tránh trả lời thừa hoặc thiếu. Ví dụ: câu hỏi nhận biết thường tập trung vào hai yêu cầu: hoặc yêu cầu xác định một đặc điểm của hình thức văn bản như thể thơ/ phong cách ngôn ngữ, phương thức biểu đạt…; hoặc yêu cầu tìm những chi tiết thuộc về nội dung văn bản phù hợp với nội dung định hướng trong câu lệnh - khi làm bài, học sinh cần đọc kỹ ngữ liệu, xác định đúng đặc điểm hình thức văn bản hoặc chi tiết nội dung văn bản, không phân tích diễn giải.
Câu hỏi thông hiểu thường yêu cầu giải thích cách hiểu nội dung một khái niệm/ nhận định/câu văn/ câu thơ…trong văn bản. Học sinh cần giải thích nghĩa đen/ nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ, biểu tượng ( nếu có) của khái niệm/ nhận định…
Câu hỏi vận dụng thường yêu cầu xác định và phân tích giá trị của biện pháp tu từ, tác dụng của việc sử dụng từ ngữ... trong văn bản trong câu/ đoạn văn bản. Học sinh cần vận dụng kiến thức tiếng Việt, tu từ học, văn học, cuộc sống… để xác định đúng và phân tích giá trị biểu đạt và giá trị biểu cảm…
Câu hỏi vận dụng cao thường yêu cầu thể hiện cảm xúc, suy nghĩ, thái độ và nhất là quan điểm cá nhân trước một nhận định/ thông điệp/ vấn đề đặt ra trong văn bản đọc hiểu.
Với dạng câu hỏi yêu cầu thể hiện cảm xúc, suy nghĩ về một hiện tượng, sự việc…, học sinh cần trả lời ngắn gọn, chân thành, trung thực những suy nghĩ, xúc cảm cá nhân, tránh khuôn mẫu, sáo rỗng, hô khẩu hiệu… Với dạng câu hỏi "Anh/chị có đồng tình…?/ Vì sao", học sinh cần xác định đúng suy nghĩ, nhận thức của mình để luận bàn cho thấu đáo, chặt chẽ.
Hoàn toàn có thể xuất hiện nhiều phương án: đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình nhưng có giới hạn, điều kiện, ngoại lệ…. Phần quan trọng nhất là trả lời câu hỏi "Vì sao?" với lập luận chặt chẽ và trung thực, thuyết phục.
Câu viết đoạn văn nghị luận xã hội luôn có nội dung nghị luận quan hệ hữu cơ với nội dung chính của ngữ liệu đọc hiểu. Học sinh cần đặc biệt chú ý đảm bảo hai yêu cầu về nội dung và hình thức của đoạn văn: Về nội dung, chỉ nghị luận một khía cạnh, một bình diện của vấn đề (nguyên nhân/ ý nghĩa/ hậu quả/ giải pháp/ bài học…); về hình thức, cần viết đúng cấu trúc đoạn, viết đúng dung lượng theo yêu cầu trong câu lệnh của đề bài…
Bài nghị luận văn học chiếm quỹ điểm cao nhất trong đề thi, đòi hỏi các em dành nhiều nhất thời gian và tâm sức. Cần xác định chính xác yêu cầu nghị luận thể hiện trong đề bài, đặc biệt trong câu lệnh, phác sơ lược hướng triển khai nội dung nghị luận để quá trình viết không lan man hoặc sơ sài. Nếu đoạn văn Nghị luận xã hội cần sự thể hiện cái tôi bản lĩnh, trung thực thì bài Nghị luận văn học rất cần khả năng cảm nhận tinh tế, sự phân tích sâu sắc và tình cảm chân thành.
Tiến sĩ Văn học Trịnh Thu Tuyết