Sinh viên phải học từ 120 - 150 tín chỉ mới được tốt nghiệp
(Dân trí) - Bộ GD-ĐT đã ban hành Thông tư số 17/2021/TT-BGDĐT quy định chương trình đào tạo, xây dựng, thẩm định và phê duyệt chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.
Thông tư có hiệu lực kể từ ngày 7/8/2021.
Thông tư quy định về chuẩn chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học; xây dựng, thẩm định và ban hành chuẩn chương trình đào tạo cho các lĩnh vực và ngành đào tạo; xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.
Thông tư này không quy định đối với các chương trình đào tạo do cơ sở đào tạo nước ngoài cấp bằng tốt nghiệp, bao gồm cả chương trình liên kết với nước ngoài theo quy định về hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục.
Lãnh đạo Bộ GD-ĐT cho biết, Thông tư là cơ sở để xây dựng, thẩm định và ban hành chuẩn chương trình đào tạo (CTĐT) của các ngành, nhóm ngành của từng lĩnh vực đối với từng trình độ để thực hiện Quyết định số 436/QĐ-TTg ngày 30/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với các trình độ của giáo dục đại học, giai đoạn 2020 - 2025. Điều này góp phần không nhỏ trong tiến trình xây dựng báo cáo tham chiếu Khung trình độ quốc gia Việt Nam và Khung tham chiếu trình độ ASEALaN.
Cử nhân khối lượng học tối thiểu là 120 tín chỉ
Thông tư quy định, chuẩn đầu vào đối với bậc cử nhânở chương trình đào tạo đại học và chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ bậc 7 là người học phải tốt nghiệp THPT hoặc trình độ tương đương.
Khối lượng học tập tối thiểu được yêu cầu là 120 tín chỉ, cộng với khối lượng giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng-an ninh theo quy định hiện hành.
Một tín chỉ được tính tương đương 50 giờ học tập định mức của người học, bao gồm cả thời gian dự giờ giảng, giờ học có hướng dẫn, tự học, nghiên cứu, trải nghiệm và dự kiểm tra, đánh giá.
Riêng với các chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ bậc 7, khối lượng tối thiểu phải là 150 tín chỉ, cộng với khối lượng giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng - an ninh theo quy định hiện hành hoặc 30 tín chỉ đối với người có trình độ đại học thuộc cùng nhóm ngành.
Đối với khối lượng học tập tối thiểu đối với các chương trình đào tạo song ngành phải cộng thêm 30 tín chỉ, đối với chương trình đào tạo ngành chính - ngành phụ phải cộng thêm 15 tín chỉ so với chương trình đào tạo đơn ngành tương ứng.
Chương trình đào tạo thạc sĩ yêu cầu tối thiểu 60 tín chỉ
Ở bậc thạc sĩ,chuẩn đầu vào của chương trình đào tạo thạc sĩ là người học phải tốt nghiệp đại học (hoặc trình độ tương đương trở lên) ngành phù hợp; có trình độ ngoại ngữ bậc 3 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương.
Đối với chương trình đào tạo thạc sĩ theo định hướng nghiên cứu, người học phải tốt nghiệp đại học hạng khá trở lên hoặc có công bố khoa học liên quan đến lĩnh vực sẽ học tập.
Chương trình đào tạo thạc sĩ yêu cầu tối thiểu 60 tín chỉ đối với người có trình độ đại học thuộc cùng nhóm ngành.
Về cấu trúc và nội dung chương trình đào tạo, yêu cầu đối với chương trình đào tạo thạc sĩ nếu theo định hướng nghiên cứu là khối lượng nghiên cứu khoa học phải từ 24 - 30 tín chỉ, bao gồm 12 - 15 tín chỉ cho luận văn, 12 - 15 tín chỉ cho các đồ án, dự án, chuyên đề nghiên cứu khác.
Nếu đó là định hướng ứng dụng, nội dung thực tập phải từ 6 - 9 tín chỉ; học phần tốt nghiệp phải từ 6 - 9 tín chỉ dưới hình thức đề án, đồ án hoặc dự án.
Đạt trình độ tiến sĩ phải học tối thiểu từ 90 đến 120 tín chỉ
Đối với bậc tiến sĩ, chuẩn đầu vào của chương trình đào tạo tiến sĩ phải là người tốt nghiệp thạc sĩ hoặc chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ bậc 7 ngành phù hợp hoặc tốt nghiệp hạng giỏi trình độ đại học (hoặc trình độ tương đương trở lên) ngành phù hợp; có trình độ ngoại ngữ bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (hoặc trình độ tương đương trở lên); có năng lực, kinh nghiệm nghiên cứu.
Chương trình đào tạo tiến sĩ yêu cầu tối thiểu 90 tín chỉ với người có trình độ thạc sĩ hoặc 120 tín chỉ với người có trình độ đại học thuộc cùng nhóm ngành.
Về cấu trúc và nội dung chương trình đào tạo, yêu cầu đối với chương trình đào tạo tiến sĩ tối thiểu 80% nghiên cứu khoa học và luận án tiến sĩ; tối đa 16 tín chỉ các học phần, môn học bắt buộc hoặc tự chọn đối với đầu vào trình độ thạc sĩ; tối thiểu 30 tín chỉ các học phần, môn học bắt buộc hoặc tự chọn đối với đầu vào trình độ đại học.
6 điểm mới của Thông tư số 17/2021/TT-BGDĐT như sau:
Thứ nhất, quy định của Thông tư yêu cầu việc xây dựng chuẩn đầu ra cho các CTĐT phải đảm bảo phù hợp với Khung trình độ quốc gia Việt Nam cũng như chuẩn chương trình theo nhóm ngành, lĩnh vực. Điều này giúp quản lý được chất lượng đào tạo đồng bộ, tránh tình trạng cùng một ngành ở cùng một trình độ được đào tạo ở các trường khác nhau nhưng không đảm bảo những chuẩn mực chung tối thiểu để đào tạo ra nhân lực của ngành nghề đào tạo đó.
Thứ hai, do chuẩn CTĐT là những yêu cầu tối thiểu, cốt lõi mà tất cả CTĐT cần phải đáp ứng nên các cơ sở GDĐH hoàn toàn tự chủ và linh hoạt trong quá trình xây dựng, phát triển các CTĐT để khẳng định uy tín, thương hiệu của trường mình.
Thứ ba, với tiếp cận xuyên suốt theo hướng quản lý chất lượng đầu ra, việc "đánh giá đạt chuẩn đầu ra CTĐT" được xem là một yêu cầu mới đối với quản lý chất lượng đào tạo. Cách tiếp cận quản lý chất lượng này yêu cầu các cơ sở GDĐH không chỉ minh bạch chuẩn đầu ra cho các bên liên quan mà còn phải cung cấp được minh chứng người tốt nghiệp đạt được những chuẩn đầu ra mà cơ sở GDĐH đã tuyên bố với người học và các bên liên quan cũng như toàn xã hội.
Thứ tư, để đảm bảo quyền tự chủ của cơ sở GDĐH, Thông tư không quy định cụ thể theo hướng "cầm tay chỉ việc" mà quy định những yêu cầu cơ sở GDĐH cũng như các bên liên quan cần thực hiện trong mỗi nội dung công việc liên quan đến chất lượng các CTĐT.
Thứ năm, các nội dung quy định về chuẩn CTĐT đảm bảo đầy đủ các yếu tố cấu thành để phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong đối với CTĐT, làm cơ sở đối sánh trong quá trình kiểm định CTĐT. Cách tiếp cận này hỗ trợ các cơ sở GDĐH có cơ chế "tự bảo vệ sức khỏe" bền vững cho các CTĐT và tạo tiền đề quan trọng để các CTĐT đạt được tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trong nước cũng như của quốc tế.
Thứ sáu, quản lý chuẩn đầu ra không chỉ dừng lại ở việc minh bạch chất lượng CTĐT cho các bên liên quan mà còn phải "sử dụng kết quả đánh giá CTĐT để cải tiến chất lượng liên tục". Đây chính là triết lý chính của bảo đảm chất lượng mà các nhà giáo dục trên thế giới vẫn đang hướng đến và cũng là một thực hành tốt hiện các nước có nền giáo dục tiên tiến đang áp dụng.
Với cách tiếp cận sử dụng kết quả đánh giá để cải tiến chất lượng liên tục sẽ là "cú hích" để các cơ sở GDĐH thực hiện cải tiến chất lượng liên tục các CTĐT. Các yêu cầu về quản lý chất lượng đầu ra trong quy định này cũng hỗ trợ các cơ sở GDĐH xây dựng "hệ thống" bảo đảm chất lượng đồng bộ trong toàn trường để các CTĐT đều cùng hưởng lợi trong mô hình sinh thái đó.