Quy hoạch mạng lưới các trường sư phạm, đề xuất giải thể đại học vùng
(Dân trí) - Nhiều chuyên gia giáo dục lên tiếng về việc cấp bách quy hoạch trường sư phạm để "siết" chất lượng, số lượng nguồn giáo viên. Đồng thời, cân nhắc giải thể mô hình đại học vùng, đã thử nghiệm được 24 năm bộc lộ nhiều cản trở trong phát triển của các đại học thành viên tại Hội thảo Giáo dục 2018 mới đây.
Mô hình đào tạo sư phạm truyền thống gây lãng phí?
GS.TS Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội dẫn số liệu cho biết, tính đến hết năm học 2016-2017, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam có 235 đại học, học viện. Đối với nhóm trường sư phạm và đào tạo giáo viên, hiện có 58 đại học, 57 cao đẳng, 40 trung cấp, trong đó có 14 đại học, 33 cao đẳng và 2 trung cấp sư phạm.
Năm 2017, Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục cũng đã có những thống kê cơ bản về đội ngũ nhà giáo đến năm 2020 và các năm tiếp theo không còn cao như cách đây hai thập kỷ.
"Trong thực tế, với số lượng các cơ sở đào tạo giáo viên như trên và với thực trạng tuyển sinh khá lớn, thiếu kiểm soát của các trường nhóm ngành Sư phạm sẽ tạo ra sự dư thừa nhân lực, hệ quả không chỉ gây lãng phí tài chính mà đáng lo ngại hơn là các vấn đề xã hội", đại diện này bày tỏ quan ngại.
Ngoài ra, việc tổ chức và chất lượng đào tạo của các trường đang không đồng nhất, điều đó tác động không tích cực đến sự phát triển giáo dục vì muốn đổi mới thành công phải bắt đầu từ người thầy và không thể phát triển giáo dục nếu không có người thầy giỏi.
Theo GS. TS Nguyễn Văn Minh, hầu hết trường đào tạo giáo viên thuộc hệ thống công lập. Trong điều kiện khó khăn, nền kinh tế - xã hội, khó đủ tiềm lực trang trải, đầu tư đồng bộ cho một hệ thống trường Sư phạm cồng kềnh như hiện nay. Ngược lại, việc kiểu đầu tư dàn trải không tạo được một sự bứt phá nào trong phát triển các cơ sở đào tạo sư phạm.
Từ thực tế đó, Hiệu trưởng trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho rằng, hơn bao giờ hết, việc quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở đào tạo sư phạm hiện nay là rất cấp bách nhằm hình thành các cơ sở đủ mạnh, đào tạo có chất lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục đất nước trong thời kỳ mới.
Ông Minh dẫn chứng mô hình cung cấp nguồn giáo viên ở một số nước tiên tiến trên thế giới. Mạng lưới các trường đào tạo sư phạm ở quốc tế có xu hướng gọn nhẹ. Một mặt củng cố mô hình đào tạo sư phạm truyền thống, một mặt chuyển dần mô hình đào tạo giáo viên truyền thống thành trường đa ngành/đa lĩnh vực, linh hoạt về đầu ra.
Chẳng hạn ở một số bang của Mỹ, chỉ gần một nửa giáo viên mới vào nghề là sinh viên Sư phạm tốt nghiệp từ các trường sư phạm theo kiểu truyền thống. Sự phát triển các chương trình đào tạo giáo viên linh hoạt được Nhà nước Mỹ ủng họ, vì chúng thu hút một lực lượng đông đảo mọi thành phần xã hội tham gia hoạt động giáo dục ở nhiều loại hình cơ sở giáo dục khác nhau. Chương trình tự chọn linh hoạt khẳng định được hiệu quả, có thể nâng số lượng giáo viên cùng lúc với việc duy trì hoặc thậm chí cải tiến chất lượng giảng dạy. Một số nghiên cứu ở Mỹ chỉ ra rằng các trường Sư phạm và các chương trình đào tạo giáo viên truyền thống đã tỏ ra thất bại trong việc tạo ra những "sản phẩm" chất lượng cao theo yêu cầu được nêu trong Luật. Do đó, việc rập khuôn đào tạo giáo viên theo mô hình sư phạm truyền thống tỏ ra lãng phí và không hiệu quả.
Ở Úc, đào tạo giáo viên cũng linh hoạt theo yêu cầu của xã hội và dịch chuyển nghề nghiệp; ví dụ nếu tốt nghiệp cử nhân ngành khoa học cơ bản có thể học thạc sĩ giáo dục để trở thành giáo viên. Nước này hiện có tới 62 trường đại học có khoa học ngành đào tạo giáo viên.
Singapore chỉ có một đơn vị đào tạo giáo viên trực thuộc Đại học Nanyang. Nhật Bản có 56 cơ sở đào tạo đều thuộc các trường.
Ông Minh cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi mô hình, chương trình đạo tạo giáo viên của các nước phát triển, đặc biệt là các nước châu Á lân cận.
Đại diện này đề xuất xây dựng hệ thống trường Sư phạm gồm khu vực phía Bắc 3 cơ sở, miền Trung 2, miền Nam 2 và Tây Nguyên 1 cơ sở. Nguồn lực của các cơ sở này có thể đào tạo từ 15.000 đến 20.000 nhân lực giáo dục mỗi năm. Mặt khác, các cơ sở khác, các trường cao đẳng Sư phạm thành các phân hiệu, các cơ sở thực hành, bồi dưỡng, trở thành nhân tố tác động tích cực và trực tiếp để phát triển giáo dục địa phương.
“24 năm thử nghiệm, mô hình đại học vùng không đạt hiệu quả”
GS Từ Quang Hiển - nguyên Giám đốc Trường Đại học Thái Nguyên thẳng thắn đề xuất giải thể mô hình đại học vùng. Theo ông, mô hình này thử nghiệm được 24 năm, cho thấy cản trở sự phát triển của các trường đại học thành viên.
"Vô tình chúng ta đang tạo ra cấp trung gian quản lý trong quản lý giáo dục đại học hiện hành. Nó như cấp tổng cục hiện nay vậy. Tôi từng là hiệu trưởng đại học thành viên cũng là giám đốc đại học vùng nên rất thấu hiểu tình trạng của đại học vùng. Vì thế, tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ nghiên cứu kỹ mô hình này. Nếu giải thể được là tốt nhất", ông Hiển kiến nghị.
Theo đại biểu này, nếu không giải thể đại học vùng thì trao quyền tự chủ cao cho các trường đại học thành viên và có cơ chế chính sách cho đại học vùng tương đương như đại học quốc gia. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý đại học vùng, đại học quốc gia cũng cần có những đổi mới để có thể phát huy năng lực, vai trò của các trường thành viên.
“Tôi kiến nghị thay đổi cách quản lý của đại học quốc gia và đại học vùng giống như quản lý university system của nước ngoài, có nghĩa là đại học không phải là cấp quản lý trung gian (tổng cục), cũng không phải là cấp trên của các trường đại học thành viên; thực hiện được như vậy thì đại học và các trường thành viên đều phát triển bền vững. Có cơ chế mở về đại học quốc gia/vùng, các trường đại học độc lập đóng cùng địa bàn với đại học quốc gia/vùng có thể tham gia đại học với tư cách trường thành viên, ngược lại các trường thành viên của đại học cũng có thể tách ra thành trường đại học độc lập”, GS Từ Quang Hiển phát biểu tại hội thảo.
Lệ Thu