Những người thầy vượt phá Tam Giang
(Dân trí) - Ngày nắng, phá Tam Giang (Thừa Thiên-Huế) hiền hoà và xanh mát. Ngày mưa, mùa nổi gió, những đợt sóng dữ như muốn hất tung, nhấn chìm mọi thứ trên mặt nước... Cái thất thường của thiên nhiên đã là một phần trong cuộc sống của những thầy, cô ngày ngày đem cái chữ đến với lũ trẻ làng chài.
Thương trò hiếu học
“Yêu em anh cũng muốn vô, sợ truông Nhà Hồ sợ phá Tam Giang”. Phá Tam Giang trước đây vốn nổi tiếng vì sóng to, gió cả. Anh Hồng, người làm nghề chèo đò đưa khách vượt phá đã 15 năm nay kể: “Sáng sớm nào cũng vậy, tốp khách đầu tiên bao giờ cũng là những thầy cô giáo vượt phá sang dạy học ở bờ bên kia. Nhiều khi gặp gió lớn, sóng đánh mạnh rồi đập vào mạn thuyền khiến nước bắn tung toé vào người ngồi trong thuyền làm thầy cô ướt như chuột lột. Lại có hôm mưa bão to quá, các thầy cô không sang bờ bên kia được nhưng cũng không quay về nhà mà ngồi chờ đến tận chiều, khi ngớt sóng, gió để xuống đò vì biết rằng thế nào đám học trò cũng còn đợi!”.
Thầy Dương Văn Lành, nhà ở tận Phú Dương cũng như hơn 100 thầy cô giáo trẻ khác đã năm, sáu năm qua, mỗi ngày đạp xe vượt chặng đường gần 30 cây số để vượt phá sang với bọn trẻ vùng duyên hải chỉ vì một điều duy nhất: thương học trò nghèo hiếu học.
Những ngày đầu vượt phá chưa quen lại gặp sóng lớn, thầy và nhiều đồng nghiệp khác nôn thốc nôn tháo, khi đò cập bến lại cố liêu xiêu đi bộ đến trường cho kịp giờ lên lớp. Cái cảnh dạy muộn buổi chiều, lỡ mất chuyến đò cuối cùng trong ngày nên phải ở lại cùng bác bảo vệ trường hay tá túc nhà đồng nghiệp người địa phương là chuyện thường xảy ra với các thầy cô vượt phá.
Ông Lê Văn Lành, phó trưởng phòng giáo dục huyện Quảng Điền, cho biết: Hiện nay, ba xã vùng biển phá Tam Giang là Quảng Ngạn, Quảng Công và Hương Trà có 2 trường PTTH, 3 trường THCS và 6 trường tiểu học với tổng số hơn 200 giáo viên, trong đó hơn 50% số thầy cô vẫn vượt phá đi dạy hàng ngày. Để đảm bảo đúng giờ lên lớp buổi sáng, các thầy cô phải dậy từ rất sớm để đi chuyến đò đầu tiên trong ngày. Dù đi lại vất vả và đời sống khó khăn nhưng các thầy cô vẫn bám lớp, đảm bảo dạy tốt. Trong tổng số hơn 14.000 học sinh các cấp bên kia phá, có gần 40% học sinh đạt loại khá giỏi, tỉ lệ tốt nghiệp và lên lớp trên 96%.
Câu chuyện ấm tình người
Thầy Thái Duy Linh, Hiệu trưởng trường cấp II - III Thành Công, người đã 16 năm gắn bó với ngôi trường này cho biết: “Hầu hết các gia đình sống ở khu vực phá Tam Giang đều sống bằng nghề chài lưới nên con cái họ ngoài thời gian học tập còn phải phụ giúp cha mẹ. Nhiều em thức trắng cả đêm kiếm cá trên phá nhưng sáng sớm đã có mặt ở lớp rất nghiêm túc”.
Ở trường Tiểu học Quảng Ngạn có một câu chuyện khá xúc động về em Trần Đính, học sinh lớp 5B. Đính mồ côi cha từ khi 2 tuổi, mẹ bỏ đi lấy chồng nơi khác, em phải sống với ông bà nội đã trên 80 tuổi. Dù ít tuổi em vẫn vừa đi học vừa đi phụ ngư dân trong làng chài để kiếm tiền, có lúc mệt quá, Đính định bỏ học. Các thầy cô giáo trong trường biết chuyện đã cùng nhau bớt khoản tiền lương vốn đã eo hẹp của mình mua sách vở giúp Đính vừa có điều kiện sống và tiếp tục đến trường.
Thương trò nghèo không có nhiều thời gian vui chơi giải trí các thầy cô giáo nào cũng cố gắng học đàn ghi-ta để còn đệm đàn cho trò hát những lúc rảnh rỗi.
Mong lớp không bị… dột
Giáo dục phát triển tốt là vậy nhưng phần lớn trường lớp ở các xã miền biển này đều trong tình trạng xuống cấp mà không được tu bổ. Điển hình nhất là trường Tiểu học Quảng Ngạn, trường có hai dãy lớp học thì một dãy đã xuống cấp nghiêm trọng. Cực nhất là khi trời đổ mưa, mái nhà dột khiến nước nhỏ khắp nơi. Những lúc như thế thầy trò chỉ còn cách cất hết sách, vở giáo án vào túi nhựa rồi đội nón, học “chay”.
Ông Hoàng Hải Hồng, Hội trưởng Hội Cha mẹ học sinh kể: Do quá nghèo nên nếu phải sửa lại dù chỉ là mái nhà thì Ban giám hiệu phải cân đối thu chi đến hai, ba năm mới gom đủ kinh phí.
Theo ông Trần Quang Vinh, Phó Bí thư thường trực huyện uỷ huyện Quảng Điền, do ngân sách còn khó khăn (chỉ thu được 7-8 tỉ đồng/năm) nên huyện đã kêu gọi từ các dự án phi chính phủ nhằm cải tạo điều kiện sư phạm nhưng vẫn chưa thành công. Cũng vì ngân sách quá eo hẹp nên chẳng ai dám tính đến chuyện xây một cây cầu để người dân trong vùng và các thầy cô đi lại cho thuận tiện. Hiện nay, huyện chỉ còn cách giúp đỡ các thầy, cô bằng cách miễn phí đi lại đò ngang. Bên cạnh đó, những thầy, cô ở lại lập gia đình sẽ được cấp đất làm nhà.
Chuyến đò cuối cùng trong ngày chuẩn bị rời bến khi trời đã xẩm tối. Phần lớn khách trên đò là các thầy cô chở về nhà sau giờ dạy. Bụi phấn còn vương trên tóc, áo, ai nấy đều giữ chặt cặp sách vở, sợ gió to sóng cả, sách rơi xuống nước, mai lấy gì dạy các em?
Thanh Trầm