Học phí đại học thấp: "Chúng ta đang trợ cấp ngược cho người giàu"
(Dân trí) - Việc duy trì mức học phí đại học thấp dưới mức chi phí đào tạo, dẫn đến Nhà nước hỗ trợ mang tính chất bình quân đối với tất cả các HS,SV. Điều này dẫn đến chúng ta đang trợ cấp ngược cho người giàu.
Việt Nam dừng ở mức 630 USD/sinh viên
Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hàng năm của Việt Nam ở mức xấp xỉ 20%, tương đương trên 5% GDP. Đây là mức đầu tư tương đối cao so với nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam rất nhiều.
Tuy nhiên, chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho giáo dục chủ yếu dành cho hệ thống giáo dục phổ thông; Chi NSNN cho giáo dục đại học lại đang ở mức thấp hơn nhiều so với các nước với mức khoảng 14- 15% tổng chi NSNN cho giáo dục hay tương đương 0,33% GDP. Mức đầu tư này thấp hơn khá nhiều so với các nước phát triển và thấp hơn cả mức bình quân chung của thế giới.
Nếu so sánh chi phí bình quân/sinh viên của Việt Nam và một số nước trên thế giới cũng cho thấy mức chênh lệch lớn.
Theo thống kê, tại Hoa Kỳ là 19.000 USD; Úc 17.000 USD, Anh 15.000 USD; NewZeland 14.000 USD; Hà Lan 12.000 USD; Canada 10.500 USD; Singapore 9.000 USD; Nhật 5.000 USD; Malaysia 4.000 USD; Trung Quốc 3.500 USD; Thái Lan 2.500 USD. Trong khi đó, Việt Nam dừng ở mức 630 USD/sinh viên.
Tuy nhiên, nếu so sánh mức chi NSNN 1 sinh viên đại học so với GDP bình quân đầu người thì chi NSNN cho 1 sinh viên Việt Nam ở mức cao hơn (33-35%) so với các nước trong khu vực (Thái Lan, Singapore, Indonesia, Lào...) nhưng thấp hơn nhiều so với các nước châu Âu.
Hiện nay, cơ chế phân bổ NSNN cho GDĐH nói riêng và giáo dục nói chung tuân theo các quy định trong Luật NSNN năm 2002 (được chỉnh sửa năm 2015), xác định rõ hai cấp là trung ương và địa phương với rất nhiều bên liên quan.
Năm 2018, cả nước có 235 trường đại học, trong đó 170 trường đại học công lập, Bộ GD&ĐT quản lý trực tiếp 50 trường, chính quyền địa phương 23 trường và 2 Đại học Quốc gia trực thuộc Chính phủ, số còn lại do Bộ ngành quản lý.
Mặc dù Đề án đổi mới GDĐH đã đưa ra biện pháp nhằm "loại bỏ sự kiểm soát của các bộ chủ quản", song điều này vẫn chưa được thực hiện làm quá trình phân bổ NSNN trở nên quá phức tạp, phân tán.
Hiện nay việc giao dự toán NSNN cho các cơ sở giáo dục đại học công lập được thực hiện theo cơ chế khoán, theo công thức định sẵn và chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào.
Việc phân bổ NSNN chủ yếu căn cứ vào khả năng của ngân sách, dự toán được giao năm trước để làm căn cứ giao khoán năm sau; việc giao khoán ngân sách dựa trên các định mức ban hành đã lâu, chưa được sửa đổi; mức khoán NSNN không được điều chỉnh theo số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề và quy mô đào tạo của các trường hàng năm.
Phương thức này tạo thuận tiện trong tính toán phân bổ ngân sách nhưng không tạo ra động lực thúc đẩy các trường nâng cao chất lượng đào tạo.
Định mức phân bổ còn mang tính bình quân, chưa tính đến đặc điểm của từng ngành đào tạo do chi phí đào tạo đơn vị từng ngành chưa được tính toán một cách đầy đủ. Điều này tạo ra sự không công bằng trong phân bổ ngân sách, đặc biệt đối với các trường có chi phí đào tạo đơn vị cao.
Điều đó dẫn đến tình trạng các trường tập trung đào tạo các ngành có chi phí đơn vị thấp không chú trọng đến nhu cầu thực tế của xã hội và của nền kinh tế. Nhà nước chưa phát huy được việc sử dụng NSNN như một công cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường, theo hướng ưu tiên các ngành nghề đào tạo xã hội có nhu cầu cao, cắt giảm mức hỗ trợ đào tạo đối với các ngành nghề xã hội đã có đủ, hoặc đang dư thừa, sử dụng NSNN như một công cụ để điều chỉnh sự mất cân đối về ngành nghề đào tạo trong giáo dục đại học, dẫn đến còn mất cân đối giữa các ngành nghề đào tạo.
Phân bổ ngân sách mang nặng cơ chế "xin - cho"
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được của quá trình đổi mới, đầu tư tài chính hiện hành đối với giáo dục đại học công vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất cập:
Thứ nhất, cơ cấu tổ chức và thẩm quyền phân bổ ngân sách công hiện nay có vai trò chi phối rất lớn của cơ quan quản lý nhà nước tới các quyết định phân bổ. Việc quá nhiều cơ quan nhà nước cùng nắm quyền phân bổ ngân sách làm cho nguồn lực công bị phân tán và sự phối hợp thực hiện các chương trình, mục tiêu chiến lược ưu tiên gặp khó khăn.
Mặt khác, các cơ quan này đồng thời thực hiện cả hai chức năng quản lý nhà nước và quản lý điều hành tác nghiệp; điều đó dẫn đến quyết định phân bổ NSNN phải qua nhiều tầng nấc, làm giảm đi tính minh bạch và hiệu quả của quá trình phân bổ NSNN. Vì vậy, việc phân bổ NSNN cho các trường đại học vẫn mang nặng cơ chế "xin, cho". Các trường đại học hầu như chưa có tiếng nói trong quá trình phân bổ hay thảo luận ngân sách.
Thứ hai, việc phân bổ kinh phí từ NSNN đang được thực hiện một cách bình quân, không gắn với kết quả đào tạo, số lượng, chất lượng học sinh đào tạo, tính năng động, hiệu quả trong tổ chức hoạt động của các cơ sở đào tạo nên không tạo động lực cạnh tranh nâng cao chất lượng đào tạo giữa các trường đại học công lập.
Thứ ba, việc duy trì mức học phí thấp dưới mức chi phí đào tạo, dẫn đến Nhà nước hỗ trợ mang tính chất bình quân đối với tất cả các đối tượng học sinh, sinh viên trong các cơ sở đào tạo công lập, không có sự phân biệt giữa học sinh gia đình nghèo, có thu nhập thấp với học sinh gia đình trung lưu có thu nhập cao.
Trong khi đó thực tế cho thấy tỷ lệ sinh viên của các gia đình trung lưu có thu nhập cao, chiếm tỷ trọng không nhỏ trong các cơ sở giáo dục đại học. Điều này dẫn đến một thực tế là chính sách học phí thấp của chúng ta đang trợ cấp ngược cho người giàu.
Thứ tư, Nhà nước chưa phát huy được việc sử dụng NSNN như một công cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường, theo hướng ưu tiên các ngành nghề đào tạo xã hội có nhu cầu cao, cắt giảm mức hỗ trợ đào tạo đối với các ngành nghề xã hội đã có đủ, hoặc đang dư thừa, sử dụng NSNN như một công cụ để điều chỉnh sự mất cân đối về ngành nghề đào tạo trong giáo dục đại học, dẫn đến còn mất cân đối giữa các ngành nghề đào tạo.
Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngành kinh tế, luật chiếm tới 43% số sinh viên, trong khi đó khoa học cơ bản và khoa học công nghệ mỗi ngành chỉ chiếm tỷ lệ 15%; các ngành nông, lâm, ngư nghiệp - lĩnh vực được coi là chủ lực của kinh tế Việt Nam chỉ chiếm 3,1% số sinh viên.
Tự chủ đại học và tự chủ tài chính phải gắn liền với tăng cường đầu tư NSNN
Tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định toàn bộ hệ thống giáo dục đại học cả về thể chế, chất lượng, khả năng tiếp cận và các khía cạnh khác. Do đó, để thúc đẩy giáo dục đại học phát triển bền vững, Chính phủ cần lưu ý đến các khuyến nghị sau:
Trước hết, trong bất kỳ bối cảnh nào đầu tư tài chính từ NSNN cho các trường đại học đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển của hệ thống giáo dục đại học nước ta.
Tự chủ đại học và tự chủ tài chính phải gắn liền với tăng cường đầu tư NSNN cho các trường đại học, bao gồm cả các trường đại học đã tự chủ chi thường xuyên và đầu tư. Bởi vì, so sánh với các nước trên thế giới trên cả khía cạnh tương đối và tuyệt đối, đầu tư NSNN cho giáo dục đại học của Việt Nam còn ở mức rất thấp (khoảng 0,33 % tổng GDP hoặc 630USD/1 sinh viên).
Thứ hai, Chính phủ cần hoàn thiện khung pháp lý quy định cơ chế, tiêu chí và định mức phân bổ, đảm bảo tính minh bạch và công bằng cho tất cả các cơ sở giáo dục trong việc tiếp cận nguồn vốn công.
Nguồn tài trợ công cần được mở rộng cho các cơ sở ngoài công lập dựa trên những cân nhắc giữa công và phi lợi nhuận. Phân bổ ngân sách công theo hình thức "trọn gói" cần được áp dụng rộng rãi để các trường đại học linh hoạt và chủ động hơn trong việc lập kế hoạch cấp cơ sở, quyết định cách thức chi tiêu, lựa chọn ưu tiên phát triển, phân bổ lại nguồn vốn nội bộ và tiết kiệm trong đào tạo, nghiên cứu thậm chí cả xây dựng cơ bản.
Thứ ba, cần chuyển mô hình phân bổ ngân sách nhà nước cho các trường đại học dựa trên đầu vào thành các chỉ tiêu đầu ra phản ánh kết quả hoạt động của trường đại học. Để làm được điều đó, cần nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ tiêu chí thể chế sử dụng ở các nước trên thế giới như đã trình bày ở phần trước của bài viết này, đảm bảo cơ sở khoa học và thực tiễn làm cơ sở phân bổ ngân sách nhà nước.
Theo đó, yêu cầu cần thiết đối với tất cả các cơ sở GDĐH là đảm bảo chất lượng. Để thực hiện yêu cầu này, các cơ quan nhà nước cần ban hành những chuẩn mực về tiêu chuẩn chất lượng quốc gia, tiếp cận với chuẩn chất lượng khu vực và quốc tế. Bên cạnh các tổ chức kiểm định của Nhà nước, cần có những tổ chức kiểm định độc lập nhằm tiến hành đánh giá một cách khách quan, minh bạch về chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi điều quan trọng là phải điều chỉnh, bổ sung các quy định phù hợp, đảm bảo cơ chế đàm phán hiệu quả giữa cơ quan phân bổ và trường đại học đối với các hoạt động và kế hoạch đầu tư công.
Về cơ chế kiểm soát nguồn ngân sách tài trợ, Nhà nước cần xây dựng khuôn khổ pháp lý đảm bảo cho sự chi tiêu và giải ngân linh hoạt, cho phép điều chuyển ngân sách hợp lý và sự tự quyết định về đa dạng nguồn thu nhập để tăng khả năng ứng phó nhờ sử dụng nguồn lực sáng tạo của một trường đại học. Tăng cường kiểm toán tài chính nhà nước và khuyến khích kiểm toán độc lập đối với các trường đại học.
Nâng cao trách nhiệm pháp lý trong hoạt động tự kiểm soát tài chính cấp trường cũng như phát huy vai trò kiểm soát nội bộ của hội đồng trường. Quy định chặt chẽ chế độ báo cáo thường niên, báo cáo định kỳ về các chỉ tiêu tài chính cũng như chỉ số hoạt động và đầu ra của một trường đại học trong trường hợp thực hiện phân bổ tài trợ công theo hình thức "khoán" hay "cả gói".
Thứ tư, song song với phương thức tài trợ trực tiếp, cần áp dụng hình thức tài trợ gián tiếp cho các trường đại học bằng cách cấp học bổng hoặc "ngân phiếu" trực tiếp cho những người đủ tiêu chuẩn học đại học và tài trợ trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu cho những người có nhu cầu sử dụng kết quả nghiên cứu.
Sau đó, để có kinh phí hoạt động, các trường đại học phải thu hút các đối tượng này thông qua nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo và nghiên cứu. Cách làm này đề cao trách nhiệm xã hội của trường đại học và rất phù hợp với cơ chế thị trường. Đặc biệt, nó không chỉ mở rộng sự lựa chọn chủ động cho đối tượng mục tiêu mà còn giảm sự phụ thuộc của trường đại học vào cơ quan phân bổ
Thứ năm, như đã nói ở trên, xu hướng chung của nguồn tài trợ cho các trường đại học của các nước trên thế giới là giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, do đó, cần xây dựng chính sách và khuôn khổ pháp lý phù hợp để các trường đại học tìm kiếm và mở rộng các nguồn thu khác.
Cơ chế đặt hàng cần được áp dụng trong việc tài trợ cho các chương trình đào tạo và hoạt động nghiên cứu là những ngành hoặc lĩnh vực ưu tiên quan trọng. Phân bổ kinh phí dựa trên khả năng đối ứng ngân sách của trường đại học là một biện pháp tích cực khác để thúc đẩy tự chủ đại học.
Việc phân bổ kinh phí có tính đến khả năng đóng góp tài chính tự có của trường đại học vào dự toán ngân sách hoạt động. Phương thức sẽ thúc đẩy sự chủ động phát triển thu nhập ngoài ngân sách và cải thiện sức cạnh tranh của trường đại học. Đây cũng là cách xem xét khả năng "tự chủ" của trường đại học và năng lực quản trị của một hội đồng trường.
Thứ sáu, cần đổi mới chính sách học phí theo nguyên tắc chia sẻ chi phí với xã hội, trong đó các trường đại học đóng vai trò là nhà cung cấp dịch vụ. Vì vậy, Nhà nước cần trao quyền tự chủ cho các trường đại học công lập về mức thu, trước hết là thu học phí, lệ phí.
Các cơ sở giáo dục đại học công lập được phép tính đủ chi phí tiền lương và chi phí hoạt động thường xuyên trong giá dịch vụ của đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở khung giá do Nhà nước quy định, chi phí khấu hao tài sản cố định trong học phí của cơ sở giáo dục đại học công lập, đảm bảo nguyên tắc lấy thu đủ bù đắp chi phí đào tạo trong học phí.
Tuy nhiên, kèm theo cơ chế này cần có chính sách hỗ trợ đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số, người ở vùng sâu, vùng xa về mức học phí… tạo điều kiện cho mọi người đều được tiếp cận giáo dục đại học.
Ngoài học phí, các trường đại học cần đặc biệt quan tâm đến việc huy động nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và khả năng của mình.
Chính phủ cần xây dựng khung hành lang pháp lý nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện cho các trường đại học phát triển mạnh các sản phẩm từ công trình nghiên cứu khoa học, phát minh sáng chế và có cơ chế thương mại hóa các sản phẩm này.