Quy định hạng, thăng hạng không tốt sẽ ảnh hưởng đến lương giáo viên

Đặng Tự Ân

(Dân trí) - Nếu quy định tiêu chuẩn hạng và thăng hạng không tốt, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc xếp lương và tăng lương cho giáo viên cũng như chất lượng giáo dục của các nhà trường.

Ngoài "Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp", hai nội dung "Tiêu chuẩn và trình độ đào tạo, bao gồm: Bằng cấp và chứng chỉ bồi dưỡng" (1) và "Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ" (2) trong các Quy định của Thông tư số 01. 02, 03 và 04 của Bộ GD&ĐT đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều trong xã hội.

Điều này gây khó khăn cho các cấp quản lý giáo dục vĩ mô khi phải ban hành các văn bản để quản lý chỉ đạo trong toàn ngành.

Cái khó cho giáo dục

Theo quy định của Luật viên chức, giáo viên phải được xếp hạng và có các tiêu chuẩn để xếp hạng. Đây là cái khó cho giáo dục vì dạy học là ngành đặc thù trong xã hội, ngành "kỹ sư tâm hồn" chứ không phải "kỹ sư khối óc" như các ngành nghề khác.

Mặt khác, lực lương giáo viên đông, hàng năm ngân sách nhà nước phải chi rất lớn cho con người.

Nếu quy định tiêu chuẩn hạng và thăng hạng không tốt, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc xếp lương và tăng lương cho giáo viên cũng như chất lượng giáo dục của các nhà trường.

Ở một số nước phát triển, để trở thành một giáo viên trường công phải đủ ba điều kiện: Có bằng cử nhân; Có chứng nhận được làm nghề dạy học; Có chứng chỉ được dạy học một môn học hay liên môn học cụ thể trong các cấp học.

Như vậy "Tiêu chuẩn và trình độ đào tạo, bao gồm bằng cấp và chứng chỉ bồi dưỡng" đã được đào tạo ngay từ trước khi công chức ấy trở thành giáo viên để dạy học.

Ở Việt Nam lại bổ sung (1) sau khi công chức đã trở thành các thầy cô giáo đứng trên bục giảng. Nên chúng tôi gọi đó là "thả gà ra đuổi".

Vì vậy rất khó và rất phức tạp cho ngành giáo dục khi phải thực hiện các yêu cầu của Luật viên chức đã được quy định.

Nhiều thông tư vẫn còn quy định bất cập, bất lợi cho giáo viên

Giữa tiêu chuẩn (1) và tiêu chuẩn (2), nhiều khi mơ hồ, có ranh giới mờ nhạt rất khó phân biệt.

Nếu chúng ta quá coi trọng (1) sẽ gây áp lực lớn cho đội ngũ giáo viên khi phải học để có chứng chỉ. Còn nếu quá coi trọng (2) sẽ tạo ra bệnh thành tích, vốn đã trầm kha trong ngành giáo dục.

Do vậy, đòi hỏi người làm chính sách không chỉ có năng lực chuyên môn nghề nghiệp mà cả nghệ thuật xây dựng văn bản nữa.

Việc bỏ các chứng chỉ tin học, ngoại ngữ hay ngoại ngữ 2 của Bộ GD&ĐT trong các Thông tư 01, 02, 03 và 04 là phù hợp thực tiễn, đáp ứng mong mỏi của giáo viên và giữ bình yên trong dư luận.

Tuy nhiên, nội dung của các Thông tư vẫn còn nhiều quy định bất cập, bất lợi cho giáo viên, tạo cơ hội cho việc tiêu cực, trục lợi ở các cơ sở bồi dưỡng cấp bằng, cấp chứng chỉ, như đã từng xảy ra ở trường Đại học tư thục Đông Đô.

Quy định hạng, thăng hạng không tốt sẽ ảnh hưởng đến lương giáo viên - 1

Nội dung của các Thông tư vẫn còn quy định bất cập, bất lợi cho giáo viên. 

Theo chúng tôi, các cơ quan chuyên môn ở Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ cần nghiên cứu sâu sắc thực tiễn giáo dục và hoàn cảnh hiện có ở Việt Nam để có cơ sở tiếp tục điều chỉnh nội dung các thông tư xung quanh các nội dung trong các quy định sau:

Về bằng cấp:

Không nên có quy định trình độ Thạc sĩ trong các tiêu chuẩn hạng của giáo viên.

Hiện nay trong các trường Sư phạm chỉ đào tạo giáo viên trình độ Cử nhân, thì khi ra trường, tại sao lại quy định họ phải có trình độ sau Cử nhân để được thăng hạng, đồng nghĩa được tăng lương ở bậc cao hơn.

Chúng tôi được biết, khi các thông tư mới của Bộ GD&ĐT mới ban hành, chưa có hiệu lực pháp lý, nhưng nhiều trường giáo viên đã đăng ký tuyển sinh học trình độ Thạc sĩ.

Nếu không có sự điều chỉnh kịp thời thông tư, các trường Sư phạm, các trung tâm bồi dưỡng thường xuyên sẽ quá tải, dễ xảy ra tiêu cực trong việc đào tạo giáo viên có trình độ Thạc sĩ.

Giáo viên có trình độ Thạc sĩ là tốt và cần được khuyến khích. Còn nếu là quy định bắt buộc thì nên đào tạo họ có trình độ Thạc sĩ ngay từ khi họ còn học trong trường, trước khi là giáo viên, đứng lớp dạy học.

Đối với những người vừa dạy học vừa vượt khó cố gắng học để nâng bằng cấp đào tạo, có thể thưởng bằng vật chất và vinh danh bằng tinh thần.

Tất nhiên không động viên những giáo viên này bằng hình thức tăng lương như hiện nay, nhất là trong bối cảnh của giáo dục Việt Nam.

Quy định hạng, thăng hạng không tốt sẽ ảnh hưởng đến lương giáo viên - 2

Nếu không có sự điều chỉnh kịp thời thông tư, các trường Sư phạm, trung tâm bồi dưỡng thường xuyên sẽ quá tải. 

Về chứng chỉ bồi dưỡng theo hạng và thăng hạng: Có khoảng 10 chuyên đề để bồi dưỡng chứng chỉ này.

Trước kia, các chuyên đề này bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên trong hè cho giáo viên.

Theo chúng tôi nên chuyển tối đa, có thể được, các chuyên đề trong tiêu chuẩn (1) sang nội dung quy định trong tiêu chuẩn (2). Nhất là những chuyên đề đậm chất chuyên môn nghiệp vụ thì không nên để trong quy định tiêu chuẩn (1). Hoặc những chuyên đề chỉ thích hợp cho cán bộ quản lý giáo dục cũng không nên yêu cầu giáo viên phải bồi dưỡng có chứng chỉ để giữ hạng hay thăng hạng viên chức.

Việc bồi dưỡng giáo viên để có kỹ năng thay sách giáo khoa mới là rất hệ trọng và thiết thực cho mọi giáo viên lúc này.

Trong khi công cuộc đổi mới chương trình và sách giáo khoa thường kéo dài gần 20 năm. Phải chăng, chúng ta nên lựa chọn và đưa các các modul bồi dưỡng thay sách giáo khoa vào bồi dưỡng chứng chỉ hạng của viên chức là giáo viên.

Vì học để "ấm vào thân", chắc tay nghề, thì giáo viên sẽ tự giác, không học đối phó, mà học để được giữ lương, hay tăng lương theo hạng.

Với quan niệm cập nhật nội dung bồi dưỡng cho giáo viên như thế, sẽ giúp nội dung bồi dưỡng không trùng lặp, sát thực tế, không gây áp lực cho giáo viên và gây ra sự bất an trong xã hội.

Từ đó tiêu cực nảy sinh chính từ nội tại, trong lòng giáo dục không còn có kẽ hở để âm thầm, nảy nở và phát triển.

Để hạn chế tối đa những bức xúc trong xã hội khi ban hành và triển khai thực hiện những quy định tiêu chuẩn hạng và thăng hạng, nhất thiết chúng ta phải mạnh dạn thay đổi quan niệm, nhất là làm sao để không có tư tưởng lợi ích nhóm, ngay từ lúc xây dựng chính sách và cả quá trình thực thi chính sách.