Bức tranh giáo dục đại học "biến động" như thế nào sau khi tự chủ?
(Dân trí) - Ngày 4/8, Bộ GD-ĐT tổ chức Hội nghị Tự chủ đại học năm 2022. Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Bộ GDĐT và Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội chủ trì Hội nghị.
Hội nghị có sự tham dự của hơn 900 đại biểu là lãnh đạo các bộ, ban, ngành trung ương; đại diện các hiệp hội, các tổ chức quốc tế; Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng đại học/Chủ tịch Hội đồng trường, Giám đốc/Hiệu trưởng, lãnh đạo bộ phận tổ chức nhân sự của các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước.
Hội nghị nhằm đánh giá kết quả đã đạt được trong triển khai tự chủ đại học, thẳng thắn nhìn nhận khó khăn, vướng mắc, xác định những nguyên nhân trọng yếu, từ đó định hướng lộ trình cùng những việc cần làm trong thời gian tới.
"Cuộc cách mạng toàn diện" của giáo dục đại học
Báo cáo tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Hoàng Minh Sơn cho biết, tự chủ đại học là một đột phá chiến lược, được kỳ vọng sẽ tạo nên cuộc cách mạng toàn diện cho GDĐH, đến nay, tự chủ đại học đã đạt một số kết quả đáng khích lệ, tạo bước chuyển biến tích cực cả về nhận thức lẫn công tác tổ chức thực hiện. Chuyển biến này xuất phát từ đòi hỏi khách quan, xu thế phát triển của GDĐH trên thế giới và được thúc đẩy bởi chủ trương, đường lối và chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Theo đó, cơ quan quản lý Nhà nước đã thể hiện quyết tâm trong đẩy mạnh tự chủ; tiến hành xây dựng hệ thống văn bản triển khai tự chủ theo tinh thần của Luật số 34/2018/QH14; xây dựng được một số mô hình tự chủ hiệu quả, tạo tiền đề để triển khai sâu, rộng trên toàn hệ thống.
Vai trò lãnh đạo của Đảng từ khi thực hiện tự chủ ngày càng tăng thêm. Đảng ủy nhà trường giữ vai trò lãnh đạo toàn diện, mọi mặt, đặc biệt là về mặt nguyên tắc. Kết quả khảo sát các Hiệu trưởng, Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch Hội đồng trường (HĐT) do Bộ GDĐT thực hiện cho thấy, trên 80% tán thành với chủ trương, chính sách tự chủ cho thấy vai trò lãnh đạo của Đảng ủy trường được nâng cao.
Bộ GD-ĐT thống kê, từ năm 2003 đến 2018, vai trò và thực quyền của Hội đồng trường (HĐT) đã được Quốc hội quy định cụ thể tại Luật số 34, đây là bước đi quan trọng để các cơ sở GDĐH công lập thực hiện quyền tự chủ về công tác tổ chức bộ máy.
Đến nay, cả nước có 154/170 cơ sở GDĐH công lập đã thành lập HĐT theo Luật số 34 và Nghị định 99 (đạt 90,6%). Việc thành lập HĐT tại các trường trực thuộc các bộ, ngành, địa phương đạt tỷ lệ 91,18%
Đại đa số các trường thực hiện tự chủ ở mức độ toàn diện và sâu rộng đều đã mang lại hiệu quả tích cực (trên 77%). Theo kết quả khảo sát, trên 80% các trường trả lời khảo sát triển khai tự chủ toàn diện, sâu rộng về tuyển sinh và đào tạo dẫn đến các kết quả đạt được tích cực (trên 85%). Trên 65% các trường trả lời khảo sát triển khai tự chủ toàn diện, sâu rộng về hoạt động khoa học và công nghệ, các kết quả đạt được tích cực (trên 80%).
Các cơ sở GDĐH tự chủ đã chủ động rà soát, kiện toàn lại tổ chức bộ máy và nhân sự theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Tự chủ đại học cũng giúp các cơ sở GDĐH đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng.
Trách nhiệm giải trình đã đẩy mạnh việc quy định các cơ sở GDĐH phải thực hiện công khai, minh bạch.
Thu nhập giảng viên tăng lên 300 triệu đồng/năm
Ngày 24/10/2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với cơ sở GD ĐH công lập giai đoạn 2014-2017. Triển khai Nghị quyết này, hệ thống GDĐH đã có bước tiến dài về lực, các nguồn lực được khơi thông và năng lực của cơ sở đào tạo được phát huy tối đa.
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cho biết, hiện nay, đã có 142/232 trường đại học đủ điều kiện tự chủ theo quy định của Luật GDĐH (được sửa đổi, bổ sung năm 2018).
Về nhân lực, từ thời điểm được giao thí điểm tự chủ, các trường đã từng bước hình thành cơ cấu nhân lực phù hợp. Các trường có chính sách cạnh tranh, thu hút giảng viên giỏi chuyên môn và khả năng nghiên cứu khoa học. Tỷ lệ giảng viên trình độ tiến sĩ ngày một tăng, từ 25% năm 2018 lên trên 31% năm 2021.
Về tài chính, đến thời điểm hiện tại 32.76% trường đại học tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; 13.79% trường tự bảo đảm chi thường xuyên.
Về nâng cao năng lực tài chính của cơ sở, từ 2018 đến 2021, tổng thu của các cơ sở GDĐH tự chủ đa phần tăng lên, tổng thu ngoài ngân sách Nhà nước cấp chi thường xuyên cũng tăng; thu nhập bình quân tăng 20,8% đối với giảng viên và 18,7% đối với cán bộ quản lý.
Giảng viên thu nhập trên 200 triệu/năm tăng từ 19,4% lên 31,34%; thu nhập trên 300 triệu/năm trở lên tăng từ 0,75% lên 5,97% sau 3 năm thực hiện tự chủ.
Nhà nước cắt giảm theo lộ trình 5-15% chi thường xuyên
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì nguồn ngân sách cấp chưa tương xứng với chủ trương của Đảng và Nhà nước về ưu tiên đầu tư cho giáo dục.
Theo quy định tại Nghị quyết 29, NSNN chi cho lĩnh vực GDĐT tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách. Chi NSNN cho lĩnh vực GDĐT gồm chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.
Trên cơ sở tổng hợp số liệu trên hệ thống Kho bạc Nhà nước, Bộ Tài chính, trong 3 năm gần đây, tỷ lệ chi NSNN cho giáo dục đã đạt và vượt mức tối thiểu 20% tổng chi NSNN.
Tuy nhiên số liệu về chi NSNN cho GDĐH còn hạn chế chỉ đạt từ 4,33% đến 4,74% tổng chi ngân sách cho lĩnh vực GDĐT, nếu so với tổng chi NSNN chỉ chiếm xấp xỉ khoảng 1% (từ 0,9% đến 0,96%).
So sánh tỉ trọng chi NSNN cho GDĐH của Việt Nam/GDP giai đoạn 2018-2020 cho thấy tỷ trọng chi NSNN cho GDĐH của Việt Nam tăng từ 0,25% lên 0,27% GDP, tương ứng từ 13.634 tỷ đồng lên 16.703 tỷ đồng) là vô cùng khiêm tốn, thấp hơn nhiều các nước trong khu vực và thế giới.
Thống kê cho thấy chi đầu tư cho GDĐH tính trên GDP chiếm ít nhất 1% GDP ở nhiều quốc gia, các nước trong khu vực Đông Nam Á tỷ trọng chi cho GDĐH cũng gấp nhiều lần so với Việt Nam.
NSNN cơ bản chỉ đáp ứng chi tiền lương và chi thường xuyên, nguồn chi hoạt động chuyên môn thấp, kinh phí tăng cường nâng cao chất lượng đào tạo và đổi mới sáng tạo hạn chế, cũng không còn chênh lệch thu chi để tăng thu nhập cho giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục.
Hàng năm Nhà nước cắt giảm theo lộ trình 5-15% chi thường xuyên nên nhìn chung hoạt động của các cơ sở GDĐH công lập là rất khó khăn nếu không chủ động đẩy mạnh tự chủ đại học.
Số lượng bài báo quốc tế tăng 3,5 lần
Theo báo cáo của Bộ GD-ĐT số lượng bài báo quốc tế trong danh mục Web of Science (WoS) tăng thêm 3,5 lần sau 4 năm; số bài báo trong danh mục SCOPUS của các cơ sở GDĐH tăng thêm hơn 4 lần. Sản phẩm của các đề tài, dự án, chương trình KHCN cấp Bộ của các đơn vị trực thuộc Bộ đã tăng đáng kể trong các năm qua, trung bình 25%/năm.
Về đảm bảo chất lượng, tính đến 28/02/2022, cả hệ thống có 274 cơ sở giáo dục hoàn thành báo cáo tự đánh giá; 174 cơ sở giáo dục được tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước đánh giá ngoài và công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục; 591 chương trình đào tạo hoàn thành tự đánh giá; 470 chương trình đào tạo được đánh giá ngoài, trong đó có 308 chương trình đào tạo được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng.
Một số cơ sở GDĐH đã gặt hái được thành công thông qua kết quả về xếp hạng đại học ở các tổ chức xếp hạng uy tín trên thế giới. Năm 2022, Tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds (QS) công bố Bảng xếp hạng các trường ĐH theo lĩnh vực. Ở lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ, Việt Nam có 5 đại học được xếp hạng cao trong tốp 500 thế giới, ở lĩnh vực Kinh doanh và kinh tế theo Bảng xếp hạng Times Higher Education, Việt Nam có hai đại diện; lĩnh vực Khoa học Xã hội, Việt Nam có 3 đại diện.
Vướng mắc nhiều hành lang pháp lý
Lãnh đạo Bộ GD-ĐT nhận định, mọi sự đổi mới, mọi cuộc cách mạng đều không thể tránh khỏi những trở ngại, vướng mắc. Với tự chủ đại học, đó là sự thiếu đồng bộ giữa các Luật, hạn chế về phương thức quản lý của cơ quan cấp trên; nguồn kinh phí hạn hẹp, ngân sách cấp chưa tương xứng với chủ trương của Đảng và Nhà nước về ưu tiên đầu tư cho giáo dục; hạn chế về chính sách tự chủ về quản lý tài sản công, quản lý đầu tư công và khai thác, sử dụng các nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước.
Đó còn là những vướng mắc về hành lang pháp lý, khó khăn cho việc triển khai KHCN tại đơn vị cũng như sự lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu của cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu; những hạn chế của hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài; hạn chế về phân cấp, phân quyền và thực hiện quy chế dân chủ của các trường. Đặc biệt là hạn chế về nhận thức, từ nhận thức vai trò, vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của HĐT đến nhận thức và năng lực của cán bộ;…
Lãnh đạo Bộ GD-ĐT cho rằng, mục đích tự chủ đại học là nâng cao chất lượng đào tạo, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển,… Tuy nhiên, nguồn lực hạn chế là khó khăn, thách thức của nhiều cơ sở GDĐH công lập.
Trong 23 cơ sở GDĐH được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP, đến 28/02/2022 có 03 cơ sở chưa đáp ứng điều kiện tự chủ theo khoản 2 Điều 32 Luật Giáo dục đại học (đã được sửa đổi, bổ sung) với lý do: Trường ĐH Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh, Trường ĐH Công nghiệp Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh, Trường ĐH Điện lực chưa được cơ quan chủ quản phê duyệt HĐT theo Luật số 34 (Trường ĐH Điện lực chưa bầu Đảng ủy theo nhiệm kỳ mới)
Luật Giáo dục đại học được xây dựng với mục đích mở rộng phạm vi, nâng cao quyền tự chủ cho các cơ sở GDĐH, dần tiệm cận cơ chế quản trị đại học theo thông lệ quốc tế tại các nước phát triển.
Hệ thống văn bản pháp lý thực hiện Luật Giáo dục đại học về cơ bản đã hoàn chỉnh và được xây dựng theo hướng đẩy mạnh quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH. Các chính sách không quy định chi tiết, cụ thể mà chỉ quy định khung và tập trung quản lý chất lượng thông qua các chuẩn của quốc gia; các tiêu chuẩn, tiêu chí bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có sự thống nhất về một số nội dung liên quan giữa Luật Giáo dục đại học với một số văn bản luật khác như: Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công… dẫn đến những khó khăn, vướng mắc cho các trường đại học trong quá trình thực hiện đẩy mạnh tự chủ theo Luật Giáo dục đại học nhưng vẫn phải tuân thủ, thực hiện các Luật liên quan.
Hơn nữa, một số quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành liên quan cũng tạo ra các rào cản cho quá trình tự chủ của cơ sở GDĐH. Phương thức quản lý của cơ quan cấp trên hiện vẫn chưa kịp thời thay đổi, quản lý nhà nước theo quan điểm tự chủ còn hạn chế.
Nguyên nhân của các tồn tại này do quan điểm, nhận thức về tự chủ đại học chưa thống nhất và phù hợp; phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện còn nặng về hành chính; cơ sở chưa ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đẩy mạnh trách nhiệm giải trình; chưa thường xuyên cập nhật thông tin báo cáo và thực hiện công khai.
Lãnh đạo Bộ GD-ĐT cho rằng, trong giai đoạn tới, cần khẳng định việc tiếp tục đầu tư tài chính từ ngân sách (thông qua chế độ chi đầu tư theo Luật ngân sách Nhà nước hoặc giao vốn theo Luật quản lý và sử dụng vốn Nhà nước), chi đầu tư từ các bộ, ngành cho lĩnh vực GDĐH mà bộ, ngành quản lý… để tự chủ không đồng nghĩa với cắt toàn bộ đầu tư nhà nước như giai đoạn thí điểm và cách hiểu của một số cá nhân.
Các cơ sở GDĐH trong giai đoạn hiện nay rất cần Nhà nước tiếp tục đầu tư công thông qua các chương trình, dự án để bảo đảm nguồn lực phát triển bền vững, thực hiện tự chủ đại học thành công.