Lê Lựu - Giai thoại và sự thật:

Thiên phóng sự đầu tay và những phi vụ làm kinh tế

(Dân trí) - Vào một đêm trăng sáng của năm 1953, cầm tờ nhật trình Bãi Sậy (cơ quan ngôn luận của Quân khu Tả Ngạn) có đăng bài phản ánh về phong trào rào làng kháng chiến của xã, ông chú Lê Lựu nhìn lên trời cao rưng rưng: "Nhà báo họ tài thật, cứ như người nhà giời ấy, việc gì họ cũng biết".

Ông không biết rằng ở một góc sân, đứa cháu ông cũng xúc động không kém. Và khi đó, trong ý thức của cậu bé Lê Lựu, một niềm khao khát trào dâng. Làm nhà báo. Sau này lớn lên, quyết tâm phải làm "người nhà giời".

 

Thiên phóng sự đầu tay        

 

Mười năm sau (1963), Lê Lựu viết bài báo đầu tiên. Nói chính xác thì được in bài báo đầu tiên vì trước đó, anh đã viết hàng chục bài phóng sự gửi đi các báo nhưng bặt vô âm tín, không một hồi âm dù chỉ là câu "Chúng tôi đã nhận được tin, bài...". Lúc đó, anh là lính của Đại đội 3, Tiểu đoàn 4, Đoàn quân khu Tả Ngạn.

 

Dạo ấy không hiểu sao ruồi sinh ra rất nhiều. Đâu đâu cũng thấy toàn ruồi là ruồi. Trên cánh đồng trồng mầu, đi đến đâu ruồi bốc lên như khói, thành hình nấm bay cuồn cuộn trên đầu. Khi ăn cơm, luôn phải cử người đứng ra để đuổi ruồi liên tục. Dừng tay lại, ruồi sà đầy mâm cơm.

 

Để giúp nhân dân cũng như để bảo vệ sức khoẻ cho anh em chiến sĩ, toàn quân khu đã phát động chiến dịch diệt ruồi. Cái không khí náo nức ấy đã thôi thúc Lê Lựu cầm bút. Suốt mấy ngày lăn lộn thực tế, đêm về thức ghi ghi, chép chép, Lê Lựu đã cho ra đời một phóng sự trường thiên dài 26 trang vở học sinh. Bớt tiền phụ cấp, Lê Lựu trực tiếp cầm thư ra bưu điện gửi bằng đường đảm bảo. Và cũng từ hôm đó, chiều nào Lê Lựu cũng ra ngõ phấp phỏng chờ thư.

 

Cái sự chờ đợi càng ngày càng vô vọng. Cho đến một hôm, anh quân bưu chạy ùa vào doanh trại reo lớn: "Lựu, Lựu, cậu có tin vui này". Đưa cho Lê Lựu tờ báo, bảo "ông có bài đăng báo đấy" rồi vội vã đi. Lê Lựu sung sướng đến bủn rủn chân tay, mồ hôi vã đầy cả mặt. Nhưng cầm tờ báo, hết lật lên lại lật xuống vẫn không thấy đâu. Thì ra, bài phóng sự trường thiên dài 26 trang của Lê Lựu đã bị "trảm" chỉ còn đúng 27 chữ. Nó đã được Lê Lựu đọc cho tôi nguyên văn như sau: "Tính đến ngày 17/1/1963, Đại đội 3, Tiểu đoàn 4, Đoàn quân khu Tả Ngạn đã diệt được 837.650 con ruồi và nhặng. Lê Lựu".

 

Thế nhưng, sự kiện trên đã làm xôn xao cả đơn vị. Không ít người nhìn anh với đôi mắt kính nể. Để tạo điều kiện cho "Nhà báo tác nghiệp", đơn vị đã quyết định cho anh không phải trực tiếp đánh ruồi nữa mà chuyên tâm vào việc viết bài, đưa tin. Về phần mình, Lê Lựu đã cắt mẩu báo, cẩn thận bọc vào mảnh nilon rồi cho vào ví. Thỉnh thoảng lại tìm chỗ vắng người, len lén mở ví ra để... ngắm. Tết năm ấy, Lê Lựu mang tờ báo về quê.

 

Ông chú nhìn anh rưng rưng nước mắt "Mày, thằng Lựu viết đấy à?". "Vâng". "Thật không". "Dạ thật ạ". Và Lê Lựu thấy ông chú hai tay nâng tờ báo, mặt ngước nhìn lên bầu giời: "Mày là Nhà báo tức là thành người nhà giời rồi". Năm ấy, ông dẫn Lê Lựu đi khắp làng và đến đâu cũng bắt anh giở tờ báo ra để "cho thiên hạ biết mặt con cháu nhà này".

 

Những phi vụ bán bài tết

 

Gần tết năm 1999, Lê Lựu bảo tôi: "Tết này tôi với chú phải mở chiến dịch làm kinh tế". "Em có biết buôn bán gì ở đất này đâu?" "Ôi giời, tao với chú thì có mà buôn trấu bán tro, buôn C... bán cho chó. Viết báo Tết. Nhiều nơi đặt quá mà tao chẳng viết đi được". "Viết báo tết?" "Ừ. Năm trước đám thằng Khoa vớ bẫm. Nghe đâu đăng mấy chục tờ báo, kiếm tiền triệu đấy".

 

Và thế là từ hôm đó, cứ tối tối, tôi lại đến nghe Lê Lựu kể, ghi chép lại, đêm về hì hục viết ra giấy để sáng hôm sau đưa Lê Lựu sửa lại, rồi thuê người đánh máy. Khoảng 10-10 giờ 30, khi bài vở đã sửa sang lần cuối, tôi lại chở Lê Lựu đến các toà soạn để "nộp quyển". Tất nhiên, những bài như thế đều ký tên Lê Lựu bởi nhiều lẽ.

 

Trước hết, đó là ý tưởng của anh, văn phong của anh, tôi chỉ là người ghi chép lại. Thứ nữa, khi đó việc để in được một bài báo trên số Tết với tôi không dễ dàng gì. Mà giả sử có được in thì nhuận bút cũng chẳng được là bao. Thế nhưng cũng có điều bất cập nảy sinh, ví như đối với những bài phỏng vấn, chả lẽ Lê Lựu lại đi phỏng vấn... Lê Lựu? Thế là cứ Giang Minh, Châu Khoái... gì gì đó thực hiện.

 

Cũng không ít lần Lê Lựu hành tôi ra trò về chuyện câu chữ: "Ký tên tao, tao phải chịu trách nhiệm thương hiệu đấy nên không thể làm bừa, làm ẩu". Cuối năm đó, hai anh em đèo nhau đi lĩnh nhuận bút, cả thảy 11 bài được hơn 8 triệu đồng, liên hoan một bữa rồi chia nhau. Lê Lựu đưa tôi hơn 4 triệu, bảo: "Mày phải lo nhiều, cầm lấy".

 

Mặc cả với nhà văn Hữu Ước

 

Nhớ hôm đến nộp bài cho báo An ninh Thế giới, Nhà văn Hữu Ước mời vào phòng, mở rượu Tây. Lê Lựu nâng chén nói bằng giọng vô cùng thiểu não: "Ước cho anh gửi một bài báo Tết nhé". "Vâng, thế thì tốt quá, bác đưa ngay cho em nhé" - Hữu Ước hào hứng. Lê Lựu lục lục trong chiếc túi dã chiến ra một tờ giấy A4 nhàu nát, cỡ 600 chữ, giọng còn nhàu hơn: "Anh bây giờ viết lách khó khăn lắm. Chữ nghĩa nó chạy đâu sạch cả. Mà bài này có được... 3-4 triệu không Ước nhỉ?".

 

Nhà văn Hữu Ước cười phá lên: "Bác định cho em bán nhà đấy à? Nhưng mà ông anh cứ yên tâm, em sẽ trả bác bằng 3 bài khác". Và bài báo đó, tôi nhớ không nhầm thì được hơn 1 triệu. Không nói ra nhưng hai anh em đều biết đây là tấm lòng của toà soạn với văn nghệ sỹ chứ sòng phẳng ra, nhuận bút làm gì có cao mức đó. 

 

Trong đời làm báo, chức to nhất của Lê Lựu là 3 năm làm Thư ký Toà soạn. Có lần tôi doạ: "Em ngẫm thấy văn chương nó kị chức tước lắm đấy. Nhất là ở chỗ của bác. Hai ông Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu (Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải) chẳng ông nào làm quan lấy một ngày. Đằng này, bác lại có những 3 năm làm thư ký toà soạn". Lê Lựu giương mắt nhìn tôi, giọng thảng thốt: "Thế à?".

 

Ngón chân đầu ruồi và khuôn mặt bí ẩn

 

Với gần 40 năm cầm bút, hàng chục đầu sách và hàng trăm bài báo, cứ ngỡ với vị Đại tá này, niềm say mê vô tận phải là ngồi bên những giá sách khổng lồ, đàm luận chuyện cao siêu hay dự các cuộc hội thảo đao to búa lớn. Thế nhưng có lẽ ít ai biết, điều say mê lớn nhất của Lê Lựu lại là... đánh tá lả (một kiểu chơi bài tú lơ khơ). Lê Lựu sẵn sàng từ chối một buổi toạ đàm, một cuộc giao lưu, thậm chí bỏ cả một cuộc họp nếu anh cảm thấy nhạt nhẽo để đi đánh tá lả.

 

Thế nhưng Lê Lựu đánh rất thấp và thua là... chủ yếu. Tất nhiên, thua được ở đây cũng rất khiêm tốn. Người thắng cuộc cả một ngày chủ nhật không đủ chiêu đãi một bữa bia hơi hay một chầu tiết canh lòng lợn. Thậm chí chỉ là bữa bún đậu phụ, mắm tôm. Bất cứ một gã khờ nào cũng có thể đánh thắng Lê Lựu vì anh có bộ mặt như cái khay hàng xén, bày ra hết những gì mình có nên rất dễ đọc "vị" bài anh.

 

Mỗi khi chia bài xong, Lê Lựu thường cẩn thận xếp thật gọn gẽ, bàn tay khum khum che lưng quân bài, đưa sát bộ bài lên mặt và hồi hộp hé ra từng phần lá bài. Khi quan sát "tổng thể" xong, Lê Lựu vội gập bài lại và lần này thì tỉ mẩn xếp các "cạ" vào nhau với một động tác vừa mơ hồ vừa bí ẩn. Thế nhưng cứ nhìn vào mặt Lê Lựu là có thể đọc vanh vách bài anh.

 

Nếu bài có một "phỏm", mặt Lê Lựu tươi roi rói, đôi mắt hấp ha hấp háy và đương nhiên "phỏm" bao giờ cũng được gấp gọn ghẽ ở góc bên trái. Nếu bài hai "phỏm", mặt Lê Lựu hớn hở, hai bên mép giần giật và ẩn chứa một niềm hy vọng không thể che dấu. Còn nếu bài chưa có "phỏm", mặt Lê Lựu dài thượt ra một cách thảm hại. Anh hết xoè bài ra lại gập bài vào.

 

Mỗi lần chờ "ù", cái chân phải của Lê Lựu thường giật giật, đầu ngón chân cái ngọ nguậy như một con ruồi. Khi đó, Lê Lựu thường có bộ mặt rất "kịch" và thỉnh thoảng lại lấy tay huých huých vào người ngồi trên cánh: "Đánh cho tao ăn quân đi mày. Đánh cho tao ăn quân đi mày".

 

Khi "ù", mặt Lê Lựu nở như ngô rang bằng nồi áp suất. Từ mắt, môi cho đến những sợi tóc lưa thưa trên cái đầu hói cũng rung lên. "Ù rồi đây này, ù rồi đây này. Tôi ù rồi đây này...". Qủa thật mỗi lần nhớ về khuôn mặt anh lúc ấy, tôi thường nghĩ đến vẻ rạng ngời của tổng thống Hoa Kỳ ngày trúng cử.

 

Một điều không thể không nói tới, Lê Lựu giấu bài rất kỹ nhưng ai cũng có thể đọc được bài của anh chỉ vì một lẽ đơn giản, khi tay phải bốc bài thì tay trái anh thường "quên mất" lại xoè cả cỗ bài ra với bàn dân thiên hạ. Có lần anh mắng: "Sao chú cứ nhìn bài của tớ?". "Bác cứ xoè vào mặt em nên em có không muốn nhìn cũng không được". "Xoè cũng không được nhìn". "Nhưng mà nó cứ đập vào mắt". Tôi cãi.

         

Đi đánh bài với Lê Lựu rất sướng vì đều là chỗ bè bạn và anh thường được mọi người chào đón rất nồng hậu nên mình cũng được hưởng lộc lây. Có lần đến nhà một người bạn, trước khi chơi bài, ông chủ đã chuẩn bị một bàn tiệc toàn sơn hào hải vị với rượu ngoại. Đến nửa đêm, lại thấy bà chủ lễ mễ bê lên một nồi cháo gà nghi ngút khói.

 

Gần sáng, vào toa lét đã thấy chủ nhà bật nước nóng lạnh để các bác đánh răng, rửa mặt. Trước khi ra về, ông chủ còn lại quả một lời hẹn đầy hy vọng, chủ nhật tuần sau các bác nhớ đến chơi cho vui nhé.

 

Thế nhưng cũng không khỏi có những hôm buồn thê thảm. Có bữa tôi với anh vét túi chỉ còn đúng 7.000 đồng, hai anh em vào quán gọi 2 bát bún 3.000 đồng/ bát với 2 chén nước chè rồi ai về nhà nấy.

 

Lại có bận về nhà dang dở, không muốn làm phiền mọi người lúc nửa đêm, hai anh em đành vạ vật ở phòng làm việc. Không chăn chiếu, không màn mùng, vừa đói, vừa rét, hai anh em thấp thỏm cả đêm chờ trời sáng.

 

Kỳ 1: Đi nhậu vì thèm cái hơi thở của hàng quán

Kỳ 2: Đi để biết một điều rất... cũ!

 Bùi Hoàng Tám