Bạn đọc viết:
Loạn kỷ cương hay lệch chuẩn trong xã hội?
(Dân trí) - Tác giả những dòng này không khẳng định, chỉ xin góp ý từ xa. Các dấu chấm hỏi (?), các từ “có lẽ” ... là những dấu bỏ ngỏ để các đồng nghiệp và các nhà xã hội học bên nước nhà trả lời, bàn thêm...

Trong xã hội học, loạn kỷ cương là một khái niệm được triển khai bởi Emile Durkheim (1858-1917) trong “De la division du travail social” - Sự phân công xã hội, xuất bản năm 1883 - để chỉ một tình thế rối loạn trật tự xã hội, thiếu vắng luật lệ hay thiếu cấu trúc sinh hoạt xã hội.
Anomie xuất phát từ chữ Hi Lạp cổ xưa, “an” nghĩa là không có và “nomos” là luật lệ, trật tự, cấu trúc - Robert K. Merton (1910-2003) sau đó dựa trên khái niệm loạn kỷ cương nhưng đi xa hơn và định nghĩa khái niệm lệch chuẩn như một sự vi phạm luật lệ xã hội (trong Social structure and anomie – Cấu trúc xã hội và loạn kỷ cương/lệch chuẩn, 1938)....
Hiện trạng xã hội Việt Nam, qua thông tin báo chí đưa hàng ngày, thấy có không ít hiện tượng rất đáng lo ngại như: bạo lực, mãi dâm, rượu chè, nghiện ngập ... Nay lại thêm chuyện ở chùa Bồ Đề. Những dòng này có thể xem như phản ứng trước bài “Bồ Đề và bức tranh đời lệch, chùa nghiêng” của tác giả Kỳ Duyên.
Trên các diễn đàn, trước những hiện tượng bất bình thường, đa phần dân tình kêu gọi phải chế tài mạnh để răn đe và để bảo vệ xã hội. Tức là mặc nhiên xếp và xem những hành vi trên là lệch chuẩn hay là phạm pháp phải bài trừ. Thế nhưng chế tài, phạt nặng có thể không giải quyết được gì hết khi về số lượng, hiện tượng đi quá khả năng chế tài. Một thí dụ rõ ràng là: làm sao bắt bỏ tù hết các bảo mẫu hành hạ trẻ con khi ta không có đủ nhà trẻ để trả lời thỏa đáng nhu cầu của các bậc cha mẹ vừa có con nhỏ vừa phải đi làm?
Dưới góc nhìn xã hội học, những hiện tượng kể trên có thể là những biểu hiệu của cả hai khái niệm: loạn kỷ cương và lệch chuẩn. Tức là muốn xã hội tốt hơn có lẽ phải nhìn sâu và nhìn đến cơ cấu.
Thí dụ 1: Vấn đề loạn kỷ cương trong giáo dục?
Hiện nay, số ngành nghề cần chuyên môn tăng đột biến nhưng giáo dục ta vẫn tiếp tục truyền kiến thức và cả truyền một số kiến thức hết giá trị vì không cập nhật. Lại truyền kiến thức theo những phương pháp sư phạm của quá khứ. Kết quả, ta không đào tạo đúng với hoàn cảnh xã hội hay đúng với đòi hỏi chuyên ngành, chuyên nghề của thị trường. Ta lại đào tạo theo phương thức lỗi thời...
Đó có thể là một trong những nguyên nhân của bạo lực học đường, của học “tủ”, học đối phó, học để thi và nói chung là…luẩn quẩn. Giá trị của đào tạo vì đó mà càng đi xuống thêm.
Ta thiếu gì? Một triết lý giáo dục hợp thời, cấu trúc chương trình thích ứng, những phương pháp sư phạm có khả năng thực hiện triết lý giáo dục và nội dung chương trình. Đồng thời ta cũng cần áp dụng những mẫu liên hệ thầy - trò hợp tình hợp lý.
Hợp tình hợp lý ở đây có nghĩa là vừa giữ văn hóa tôn sư trọng đạo, vừa tiếp cận những hiểu biết mới về tâm lý học trò và trào lưu dân chủ ở trường học.
Xem ra chẳng phải ta đang ở vào tình trạng thiếu hay loạn kỷ cương mà Durkheim định nghĩa hay sao?
Thí dụ 2: Quá tải cơ sở hạ tầng và loạn kỷ cương trong giao thông?
Số tai nạn giao thông với thiệt hại về nhân mạng là một vấn đề ngày càng nhức nhối. Ta bắt đầu nghĩ hạn chế vận tốc, chế tài các lái xe uống rượu... Nhưng khách quan mà nói, mật độ xe cộ giao thông trên đường vượt quá ngưỡng có thể chấp nhận được, va chạm thành ra bất khả kháng. Khi một người ngã xuống đường, thiếu khoảng cách an toàn thì làm sao các phương tiện bên cạnh có thể tránh được mà không cán lên người mới vừa bị ngã? Thế không là anomique – thiếu kỷ cương – thì là gì?
Những hiện tượng kèm theo đó như bóp còi inh ỏi, chèn vượt trong giao thông ... là những lệch chuẩn cũng vì thiếu kỷ cương!
Ta cần gì? Một thiết kế cơ sở hạ tầng và thiết kế đô thị với những tính toán thích hợp với nhu cầu hiện tại và tương lai, đi đôi với giáo dục những người sử dụng các cơ sở hạ tầng ấy.
Thí dụ 3: Lệch chuẩn hay vi phạm, thiếu đạo đức trong nếp sống ở thành phố?
Điển hình là cướp giật, thiếu trách nhiệm trong vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, thiếu tương trợ, tình trạng “hôi của”... Ở đây phải nói đến hiện tượng đô thị hóa ồ ạt.
Theo con số hiện có, năm 2012 có 32% dân số Việt Nam là dân thành thị và con số này càng ngày càng tăng. Ước tính tới năm 2030 thị dân sẽ chiếm 50% dân số.
Dân nhập cư ồ ạt như thế phải đối mặt với nhiều vấn đề và…lao đao vì họ phải bỏ những thói quen đã được xã hội hóa từ nhỏ. Họ phải vội vàng thích ứng với những điều kiện sống hoàn toàn mới lạ, trong những điều kiện vật chất nhiều khi rất khó khăn, lại ở trong một môi trường không còn những liên hệ và ràng buộc xã hội họ vốn đã có trước đó...
Xã hội đối với con người như “cá với nước”: mang một con cá ra khỏi môi trường nước, nó không chết thì cũng phải dãy dụa để sống còn. Người di dân, dù chỉ là di dân trong cùng một xứ sở, cũng thế. Hhọ mất liên hệ xóm làng, thiếu sự đoàn kết giúp đỡ của người lân cận khi tối lửa tắt đèn, xa gia đình thân thuộc. Bơ vơ giữa thị thành, lạ người, lạ cảnh, lạ cách sống, họ không thích hợp được cũng là điều dĩ nhiên thôi.
Ở đây có thể rất cần những nghiên cứu như của trường phái Chicago cách đây một thế kỷ để tìm cách giải quyết vấn đề.
Tiền bạc, thực dụng, thiếu y đức, mại dâm, buôn bán trẻ em... là những vấn đề khác và danh sách lệch chuẩn có lẽ còn dài ...
Nhưng tôi tin ở khả năng đối ứng của “sự khôn ngoan xã hội”. Các “chuẩn” sẽ kéo các lệch chuẩn về chính đạo và văn hóa như thế sẽ được bảo tồn.
Có cần phải thêm rằng Văn hóa là tổng thể những cách làm mà cộng đồng xã hội đã sáng chế ra để trả lời tốt nhất và để sống tốt nhất trong môi trường vật chất và xã hội không?
Từ định nghĩa này, văn hóa không phải từ trên trời rơi xuống, cũng không phải do một cơ quan quyền lực ấn định mà văn hóa đi từ dân tình trong bối cảnh thiên nhiên, địa lý, lịch sử....; từ cách sống, cấu trúc tổ chức và sinh hoạt xã hội, trật tự trên dưới, luật lệ và các giá trị phải tuân thủ...
Nói chung là cộng đồng tùy cơ ứng biến rất giỏi để sống chung với nhau và để trường tồn. Nhưng cộng đồng không phải là một hỗn hợp loạn xạ, mà là một tập thể có cấu trúc. Các cơ quan công quyền là một cấu trúc. Các xã hội dân sự có thể là một cấu trúc thứ nhì ... Trong các cấu trúc, nhiều khi ta cần cậy nhờ đến tầng lớp tinh hoa, những người có khả năng suy nghĩ, phổ cập, ảnh hưởng lớn trong cộng đồng.