Cần đặt bao nhiêu tiền để được tại ngoại?

(Dân trí) - Pháp luật Việt Nam cho phép người là bị can, bị cáo trả một số tiền để được tại ngoại. Nói một cách khác thì “đặt tiền để đảm bảo” là một biện pháp ngăn chặn thay thế cho tạm giam.

 Đặt tiền để đảm bảo là một biện pháp ngăn chặn

Luật sư Quách Thành Lực (Đoàn Luật sư Hà Nội) cho biết, theo quy định thì pháp luật hình sự có một số biện pháp ngăn chặn, trong đó bao gồm:

Giữ người trong trường hợp khẩn cấp;

Bắt người (đối với người phạm tội quả tang);

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;

Tạm giữ;

Tạm giam;

Bảo lĩnh;

Đặt tiền để bảo đảm;

Cấm đi khỏi nơi cư trú;

Tạm hoãn xuất cảnh.

Biện pháp “Đặt tiền để bảo đảm” là một biên pháp ngăn chặn được cụ thể hóa tại Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

Điều 122. Đặt tiền để bảo đảm

1. Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.

2. Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:

3. a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;

4. b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;

5. c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

3. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

4. Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại Bộ luật này. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.

5. Người thân thích của bị can, bị cáo được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận cho đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều này, nếu vi phạm thì số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Khi làm giấy cam đoan, người này được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến bị can, bị cáo.

6. Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm.

Như vậy có thể thấy rằng: Biện pháp ngăn chặn này là biện pháp thay thế cho biện pháp tạm giam và để được áp dụng biện pháp ngăn chặn như vậy thì bị can, bị cáo sẽ phải đáp ứng một số điều kiện như sau:

Cơ quan điều tra, tòa án, viện kiểm sát là cơ quan có quyền quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn;

Bị can, bị cáo cần phải cam kết một số nội dung:

Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;

Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;

Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Đặc biệt, trong trường hợp vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết, số tiền đã đặt để “bảo lãnh” sẽ bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Thành phần hồ sơ để được phép đặt tiền

Hướng dẫn cụ thể Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì Điều 22 Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP đã có nội dung như sau:

Điều 22. Áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm

1. Trường hợp Cơ quan điều tra quyết định cho bị can hoặc người thân thích của bị can được đặt tiền để bảo đảm, thì ngay sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm, Cơ quan điều tra có văn bản nêu rõ lý do, kèm theo chứng cứ, tài liệu gửi Viện kiểm sát cùng cấp đề nghị xét phê chuẩn.

2. Hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm gồm:

3. a) Văn bản đề nghị xét phê chuẩn và quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm;

4. b) Chứng cứ, tài liệu thể hiện tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can;

5. c) Tài liệu xác định bị can hoặc người thân thích của bị can đã đặt tiền để bảo đảm;

6. d) Giấy cam đoan của bị can về việc cam đoan thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự;

đ) Giấy cam đoan của người thân thích của bị can theo quy định tại khoản 5 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với trường hợp người thân thích của bị can đặt tiền để bảo đảm.

3. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn hoặc có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ, tài liệu để xét phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

4. Khi có căn cứ xác định bị can vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì Cơ quan điều tra có văn bản nêu rõ lý do, kèm theo các tài liệu xác định vi phạm của bị can và đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Cơ quan điều tra phải ra lệnh bắt bị can để tạm giam và có văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn; thời hạn tạm giam trong trường hợp này không được quá thời hạn điều tra vụ án.

5. Trường hợp Viện kiểm sát có căn cứ xác định bị can vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện các thủ tục hủy bỏ biện pháp đặt tiền để bảo đảm và áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định tại khoản 4 Điều này.

6. Trường hợp đã kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát thấy cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Thời hạn đặt tiền để bảo đảm không quá thời hạn quyết định việc truy tố, tính từ ngày kế tiếp của ngày cuối cùng ghi trong quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm của Cơ quan điều tra.

Việc cho phép đặt tiền để bảo đảm tại Việt Nam chưa phổ biến. Đặc biệt đối với những tội danh, những người có vai trò quan trọng trong sự kiện rất khó để đặt tiền tại ngoại vì những cơ quan chức năng sẽ xét thấy sự nguy hiểm cho xã hội khi hòa nhập, dễ xảy ra tình trạng bỏ trốn… Như vậy nhân thân, án tích của người là bị can bị cáo có vai trò khá quan trọng trong tình huống này!

 Đặt bao nhiêu tiền để tại ngoại?

Đây là nội dung chính của bài viết này, việc đặt bao nhiêu tiền để được tại ngoại sẽ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà sẽ được quy định trong thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC như sau:

Điều 4. Mức tiền đặt để bảo đảm

1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án quyết định mức tiền cụ thể mà bị can, bị cáo phải đặt để bảo đảm, nhưng không dưới:

2. a) Ba mươi triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng;

3. b) Một trăm triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng;

4. c) Hai trăm triệu đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng;

5. d) Ba trăm triệu đồng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

6. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định mức tiền phải đặt để bảo đảm thấp hơn nhưng không dưới một phần hai (1/2) mức tương ứng quy định tại khoản 1 Điều này trong các trường hợp sau đây:

7. a) Bị can, bị cáo là thương binh, bệnh binh, là người được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân hoặc được tặng Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là con đẻ, con nuôi hợp pháp của liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, của gia đình được tặng bằng “Gia đình có công với nước”;

8. b) Bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Như vậy, với trường hợp tội ít nghiêm trọng thì chỉ cần đặt tối thiểu 30 triệu nhưng với tội đặc biệt nghiêm trọng có thể phải đặt tới 300 triệu đồng.

Khả Vân