Bức thư "thiêng" của liệt sĩ và câu chuyện ít biết việc đưa thư về Thành cổ
(Dân trí) - Bức thư của chiến sĩ Lê Văn Huỳnh với những dự cảm kỳ lạ về ngày hy sinh đã khiến nhiều người xúc động. Đồng thời, câu chuyện đưa bức thư này về trưng bày tại Thành cổ cũng thực sự hấp dẫn...
Nhiều năm qua, bức thư "thiêng" của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh (quê ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) trưng bày tại Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị khiến nhiều người xúc động. Bức thư không chỉ mang dự cảm thiêng liêng về ngày ra đi của liệt sĩ, còn thể hiện khí phách hiên ngang, anh hùng, mang một tâm thế bình tĩnh trước hiểm nguy của người lính.
Bức thư thiêng mang dự cảm kỳ lạ…
Người có vai trò trong việc phát hiện và thuyết phục gia đình liệt sĩ để đưa bức thư về trưng bày tại Thành cổ là ông Trần Khánh Khư (70 tuổi, trú ở Khu phố 5, phường 2, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị).
Ông Khư nguyên là Trưởng ban Quản lý Di tích quốc gia đặc biệt Thành cổ Quảng Trị (1998-2007). Lần đầu tiên sau nhiều năm công tác, ông đã tiết lộ nhiều câu chuyện xúc động được lưu giữ.
Theo ông Khư, bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh dài 10 trang giấy với 1.271 chữ. Toàn bộ chữ viết trong bức thư được ông đọc vanh vách, nhớ đến từng chi tiết liệt sĩ viết cho những người thân.
Bức thư được viết vào tháng 9/1972 - trước ngày liệt sĩ hy sinh hơn 3 tháng. Khi đó, anh Lê Văn Huỳnh đang tham gia chiến đấu ở chiến trường Thành cổ Quảng Trị. Nội dung bức thư là những lời tâm huyết với mẹ, với vợ,... Bức thư còn đề cập đến nơi mình được chôn cất sau khi ra đi để hướng dẫn người thân tìm kiếm.
Ông Khư kể rằng, khi viết về mẹ, liệt sĩ Lê Văn Huỳnh bày tỏ niềm day dứt vì chưa báo đáp công ơn sinh thành đã phải ra đi. "Hôm nay, con ngồi đây biên vài dòng chữ cuối cùng, phòng khi đã "đi nghiên cứu bí mật trong lòng đất", thì gia đình khỏi thấy đó là điều đột ngột.
Mẹ kính mến! Thư này tới mẹ là con đã đi xa rồi. Chắc mẹ đau buồn lắm. Lớn lên trong vòng tay mẹ từ khi còn trứng nước, chưa kịp báo đáp công ơn sinh thành, giờ con đi xa là để lại cho mẹ nỗi buồn nhất trên đời", trích nội dung bức thư.
Đối với vợ, liệt sĩ Lê Văn Huỳnh cũng dành những tình cảm ân cần, sâu lắng trong bức thư: "… Em yêu thương. Mọi lá thư đến với em đều là nguồn động viên em khi xa anh. Song, lá thư này đến tay em sẽ là nỗi buồn lớn nhất. Chúng ta sống với nhau chưa được bao lâu, thì chiến tranh đã cướp đi của em biết bao yêu thương, trìu mến. Người ta lấy chồng thì được chiều chuộng mọi điều. Em chưa được hưởng diễm phúc ấy đã phải xa anh…".
Đặc biệt, liệt sĩ còn hướng dẫn gia đình, nếu có điều kiện thì vào mang hài cốt của mình về quê hương. "Sau này hòa bình lập lại, nếu có điều kiện vào Nam, hãy mang hài cốt anh về. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh đã hy sinh khi đưa hàng qua sông vào ngày 2/1/1973. Từ thị xã qua cầu, ngược trở lại, hỏi thăm thôn Nhan Biều. Em cứ đi đến đó, tính xuôi theo dòng nước thì ở cuối làng. Đến đó sẽ tìm thấy tấm bia ghi tên anh đục trên mảnh tôn. Mộ anh ở đó…", trích nội dung bức thư.
Truyền cảm hứng cho thế hệ sau
Theo ông Trần Khánh Khư, vào năm 2002, nhân chuyến công tác ra Hà Nội, ông được một số cựu sinh viên chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị tổ chức chuyến đi về thắp hương liệt sĩ Lê Văn Huỳnh. Trong đó, có người trực tiếp chôn cất liệt sĩ sau khi anh hy sinh. Chuyến đi này trùng dịp 49 ngày tìm thấy và đưa hài cốt của liệt sĩ từ Quảng Trị về quê tại xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Sau khi viếng tại nghĩa trang và tham gia các nghi lễ ở nhà của liệt sĩ, mọi người ở lại dùng cơm cùng với gia đình. Ông Khư dò hỏi thì người thân mới tiết lộ về bức thư của liệt sĩ để lại.
"Được sự đồng ý của mẹ và chị Xơ - vợ liệt sĩ Huỳnh, anh Chẫm - anh trai liệt sĩ, đứng lên nâng bát hương ở bàn thờ, lấy bức thư đưa cho tôi. Tôi đọc thư mà người như chùng lại, run lên, có lúc giọng đọc ngắt quãng", ông Khư nhớ lại.
Khi đọc xong bức thư của liệt sĩ, ông Khư mạnh dạn đề xuất với gia đình xin đưa bức thư về Thành cổ, nhưng vợ và anh trai liệt sĩ đều im lặng. Tuy vậy, ông vẫn cố thuyết phục gia đình liệt sĩ để xin bằng được bức thư. bởi theo ông, thư này không chỉ đơn giản là thông tin gửi cho mẹ, cho vợ và những người thân mà còn là một vật kỷ vật linh thiêng nhất còn lại của liệt sĩ.
Nhưng sau khi đọc thư, ông cảm nhận, ngoài những dòng tâm sự gửi cho gia đình, còn có một điều gì đó lớn hơn, thiêng liêng hơn mà liệt sĩ như muốn nhắn nhủ lại các thế hệ mai sau.
Ông Khư lấy lại bình tĩnh để thuyết phục gia đình thêm lần nữa: "Tôi nói với vợ và anh trai liệt sĩ rằng: Đây là kỷ vật của liệt sĩ để lại với người thân. Nếu như gia đình lưu giữ thì đó chỉ là kỷ niệm riêng, còn nếu như đưa về Di tích Thành cổ Quảng Trị lưu giữ, thì chắc chắn bức thư sẽ được lan tỏa rộng hơn, sâu hơn và có ý nghĩa giáo dục lớn hơn cho các thế hệ mai sau".
Tiếp đó, nhiều người đi trong đoàn đều lên tiếng thì mẹ, vợ và anh trai liệt sĩ đã đồng ý để ông Khư xin bức thư đưa về Thành cổ trưng bày.
Thế nhưng, theo ông Khư, để đưa bức thư vào trưng bày tại bảo tàng và công bố rộng rãi là một câu chuyện dài, chưa từng có tiền lệ và vấp phải một số "rào cản" về thủ tục.
Vào cuối năm 2002, nhân buổi lễ tất niên tại Thành cổ với sự có mặt của lãnh đạo Sở Văn hóa - Thông tin và thị xã Quảng Trị cùng cán bộ, nhân viên, ông Khư mang bức thư của liệt sĩ ra đọc. Mọi người nghe xong đều xúc động, thậm chí không dám tin vào những gì viết trong thư.
Thời gian sau, vào mỗi lần đón khách đến viếng tại Thành cổ, ông Khư tranh thủ giới thiệu bức thư với các đoàn khách và chỉ đạo anh em hướng dẫn viên trong phần thuyết minh về Di tích Thành cổ, tranh thủ giới thiệu thêm về bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh. Các đoàn khách đều rất cảm động, chăm chú lắng nghe từng câu, từng chữ. Nhiều người không cầm được nước mắt, khóc thành tiếng.
Ông Khư nhớ, có lần, một đôi vợ chồng trẻ đi xe gắn máy từ Gia Lai - Kon Tum ra Thành cổ Quảng Trị tìm gặp chỉ để xin được xem trực tiếp bức thư có thật hay không…
Theo ông Khư, sau nhiều khó khăn thì bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh đã được lan tỏa rộng rãi. Nhiều đoàn tham quan muốn tận mắt nhìn thấy bức thư. Do đó, mục đích ban đầu của ông khi đề xuất với gia đình đưa bức thư về trưng bày tại Thành cổ Quảng Trị đã đạt được.
Ý nghĩa to lớn nhất của bức thư liệt sĩ để lại nhằm truyền khát vọng, ý chí và nghị lực sống cho thế hệ trẻ mai sau. Trong khó khăn, hiểm nguy nhưng vẫn luôn lạc quan, tâm thế, khí phách kiên cường...