70% dân số có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi các thiên tai liên quan đến nước
(Dân trí) - Theo nghiên cứu mới đây, 70% dân số có nguy cơ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các thiên tai liên quan đến nước, xu hướng gia tăng luân phiên lũ lụt và hạn hán.
Các thách thức trong biến đổi khí hậu
Khoảng 200 nhà quản lý, nhà khoa học vừa thảo luận về việc phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ đảm bảo an ninh nguồn nước tại hội thảo "Định hướng phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ đảm bảo an ninh nguồn nước giai đoạn 2021-2030" do Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Trường Đại học Thủy Lợi tổ chức chiều 8/12.
Chương trình do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý, gọi tắt là KC-14/21-30 được phê duyệt hôm 1/12.
Hiện nay, nước đã trở thành tài nguyên chiến lược thứ hai sau tài nguyên con người. Đây cũng là chìa khóa để đạt được tất cả mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, nhưng đang bị suy thoái trầm trọng.
Trao đổi tại hội thảo, TS Nguyễn Minh Khuyến - Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường - cho biết với tổng lượng nước bình quân trên đầu người 9.589m3/người/năm, tài nguyên nước Việt Nam được đánh giá là cao so với tiêu chuẩn của khu vực và thế giới.
Song, tài nguyên nước Việt Nam lại đang phải đối mặt với nhiều thách thức do phân bố không đồng đều về không gian và thời gian.
"70% dân số có nguy cơ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các thiên tai liên quan đến nước, xu hướng gia tăng luân phiên lũ lụt và hạn hán. Do đó, việc bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia là vấn đề thiết yếu, cấp bách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030 của Đảng", TS Nguyễn Minh Khuyến cho biết.
Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa cả nước - nhưng đang đối mặt với các thách thức do ảnh hưởng biến đổi khí hậu.
GS.TS Tăng Đức Thắng - nguyên Phó giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam - cho biết Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với rất nhiều thách thức, trong đó có sụt lún.
Theo số liệu quan trắc từ cơ quan chức năng và của Viện cho thấy, hằng năm khu vực này sụt lún từ 0,5m đến 3 m, riêng khu vực ven biển ước tính lún từ 1,5 đến 3,5cm mỗi năm. Đây được cho là có tốc độ sụt lún lớn.
Theo tính toán, nếu tốc độ sụt lún tiếp tục duy trì như trên, cao độ địa hình của vùng sẽ hạ thấp rất sâu 1,5-2 m. Dự báo tại tỉnh Hậu Giang đến 2050, cao độ địa hình ở mức từ -0,5m đến -1m, vào năm 2.100 là -1 m đến -2 m, được cho rất thấp.
Từ thực tế trên, GS Thắng cho rằng giới nghiên cứu cần quan tâm đến vấn đề này và cần thiết có các công trình thích ứng, giảm thiểu suy thoái của vùng do sụt lún đất và xói lở sông biển.
Về vấn đề an ninh nguồn nước, trong những năm qua, nhà nước đã đầu tư và có nhiều giải pháp để bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra với an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước ở nước ta.
Về nghiên cứu công nghệ, để gia tăng nguồn nước cũng như sử dụng nước hiệu quả và tiết kiệm cũng là bài toán lớn đặt ra trong giai đoạn tới khi nhu cầu nước dự kiến năm 2045 là 130 tỷ mét khối, tăng khoảng 30% so với nhu cầu thực tế hiện nay.
Nguồn nước ở nhiều khu vực của nước ta bị ô nhiễm trầm trọng. Công trình khai thác nguồn nước xây dựng từ lâu đã xuống cấp, khó thay đổi công năng để đáp ứng cho sản xuất quy mô lớn; quản trị nước còn yếu, hiệu quả khai thác, sử dụng nước thấp...
Đặt hàng nhà khoa học giải quyết thách thức an toàn nguồn nước
Phát biểu tại hội thảo, ông Trần Hồng Thái - Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ - đề cập vai trò quan trọng và những thách thức của vấn đề an ninh nguồn nước quốc gia, an toàn đập.
Qua đó, Thứ trưởng kêu gọi các nhà khoa học trong lĩnh vực tài nguyên nước cùng nhau liên kết để nghiên cứu nhằm ứng dụng khoa học công nghệ trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn đập quốc gia.
Theo ông Trần Hồng Thái, Bộ Khoa học và Công nghệ kỳ vọng trong giai đoạn đến năm 2030, Chương trình KC.14/21-30 sẽ góp phần giải quyết những vấn đề tổng thể về khoa học và công nghệ liên quan đến an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước.
Công nghệ tiên tiến và giải pháp để phát triển gia tăng nguồn nước nhằm chủ động ứng phó với nguy cơ, rủi ro mất an ninh nguồn nước, tránh gây thất thoát nước. Cần đề xuất giải pháp mới gắn với đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong quản lý nhằm nâng cao mức bảo đảm an toàn, khai thác hiệu quả đập, hồ chứa nước…
Về nguồn nhân lực, PGS.TS Nguyễn Hữu Huế - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Thủy Lợi - cho biết, trong lĩnh vực an ninh nguồn nước và an toàn đập, nhà trường có hàng trăm nhà khoa học đang giảng dạy và nghiên cứu về các lĩnh vực: Khí tượng, thủy văn, quy hoạch, tưới tiêu, quản lý hệ thống công trình thủy lợi, môi trường đất, nước, cấp thoát nước, xử lý nước, an toàn hồ đập, vận hành và khai thác hồ chứa nước….
Nguồn lực về con người của nhà trường hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ khoa học cấp nhà nước của Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước giai đoạn đến năm 2030.
Cùng với đó, với bề dày truyền thống 65 năm xây dựng và phát triển, trường đã có nhiều sản phẩm nghiên cứu khoa học và phục vụ sản xuất đã được ứng dụng rộng rãi đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập, dự báo, cảnh báo sớm, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai.