Tăng trưởng 5 năm đạt 5,8%, Việt Nam thuộc top đầu thế giới!
(Dân trí) - Dù năm 2020 chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2016 - 2020 của Việt Nam ước đạt 5,8%, thuộc nhóm cao nhất khu vực, thế giới…
Báo cáo đánh giá sơ bộ tình hình thực hiện Nghị quyết số 142/2016/QH13 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 được đưa ra thảo luận tại phiên họp toàn thể của UB Kinh tế Quốc hội ngày 25/9.
Theo cơ quan thực hiện báo cáo (Bộ Kế hoạch - Đầu tư), trong tổng số 18 chỉ tiêu kinh tế xã hội có đánh giá sơ bộ, có 14/18 chỉ tiêu đạt và vượt và 4 chỉ tiêu không đạt mục tiêu, gồm: tốc độ tăng trưởng kinh tế, GDP bình quân đầu người, tỷ lệ lao động qua đào tạo và tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, ở mức bình quân 6,8%. Vì năm 2020 kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm, theo đó, ở mức khoảng 5,8%, vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Trong đó, khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt, đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng chung. Quy mô GDP tiếp tục được mở rộng, đến năm 2020 ước đạt khoảng 269 tỷ USD, tăng 1,4 lần so với năm 2015; GDP bình quân đầu người năm 2020 ước đạt khoảng 2.750 USD/người, gấp khoảng 1,3 lần so với năm 2015.
Kết quả nổi bật nữa được nêu tại báo cáo là các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt bằng 33,5% GDP, đạt mục tiêu bình quân 5 năm (32 - 34% GDP). Cán cân xuất, nhập khẩu hàng hoá chuyển từ thâm hụt sang thặng dư cuối kỳ 5 năm, đặc biệt ghi nhận mức xuất siêu kỷ lục trong năm 2019 (đạt 10,87 tỷ USD), tạo điều kiện cán cân thanh toán giữ được trạng thái tích cực, góp phần ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác.
Ngành năng lượng cơ bản đáp ứng đủ cho nhu cầu năng lượng của nền kinh tế. An ninh lương thực quốc gia được bảo đảm vững chắc, góp phần quan trọng ổn định kinh tế - chính trị - xã hội và phát triển đất nước, nhất là trong đại dịch Covid-19; tham gia vào nguồn cung lương thực, thực phẩm cho thế giới.
Khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo giãn rộng
Bên cạnh kết quả, báo cáo cũng chỉ ra nhiều hạn chế, yếu kém, khó khăn, thách thức trong 5 năm qua.
Đó là, kết quả phát triển kinh tế - xã hội trên nhiều mặt vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và thiếu tính bền vững. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn mục tiêu kế hoạch đề ra, chưa thu hẹp được khoảng cách và bắt kịp các nước trong khu vực. Năng suất chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, chưa thực sự dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Các đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng chưa có những bứt phá lớn. Mô hình tăng trưởng vẫn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong nước....
Ngoài ra, trong xã hội, chênh lệch giàu - nghèo có xu hướng gia tăng, đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn khá lớn.
Năng lực, phẩm chất, ý thức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa cao; còn tình trạng nhũng nhiễu, tham nhũng vặt, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả. Bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức; tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên một số địa bàn còn diễn biến phức tạp. Chưa tận dụng, khai thác tốt những cơ hội và điều kiện thuận lợi trong hội nhập quốc tế.
Về nguyên nhân chủ quan, báo cáo nêu rõ, nhận thức một số vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa sâu sắc, thống nhất, nhất là quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, sở hữu đất đai, phân bổ nguồn lực, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, hợp tác xã, tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập,…
Công tác chỉ đạo, điều hành một số mặt còn lúng túng, phản ứng chính sách có mặt còn chậm; phương thức lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội trong thực tiễn nhiều nơi, nhiều lĩnh vực chưa thật phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao; còn có biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”.