Tại sao trong điện ảnh nhà nước chi tiêu nhiều mà hiệu quả lại rất ít?

(Dân trí) - “Nếu cứ để việc nhà nước đặt hàng làm phim như hiện nay thì có đổ thêm bao nhiêu tiền cũng vô ích, chỉ có lợi cho khâu trung gian. Kết cục chúng ta vẫn không có những tác phẩm xứng đáng với sự mong đợi của khán giả”, đạo diễn Đặng Nhật Minh viết.

NSND Đặng Nhật Minh là một trong những đạo diễn nổi tiếng của nền điện ảnh Việt Nam. Ông được nhắc tới với những bộ phim lớn như  “Cô gái trên sông”, “Thương nhớ đồng quê”, “Mùa ổi”... Đặc biệt với phim “Bao giờ cho đến tháng Mười” được nhiều hãng thông tấn đánh giá là một trong những phim hay nhất châu Á mọi thời đại. Là người tâm huyết với nền điện ảnh nước nhà, ông không ngần ngại bày tỏ quan điểm cá nhân để mong đem tới khán giả những tác phẩm xứng đáng nhất. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bài viết của đạo diễn- NSND Đặng Nhật Minh gửi riêng cho độc giả Dân trí.
 
Hình ảnh giới thiệu phim
Hình ảnh giới thiệu phim Bao giờ cho đến tháng Mười - một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của đạo diễn Đặng Nhật Minh.

 

***

 

Gần đây Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 645/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án xây dựng chính sách thẩm định, quảng bá v.v… các tác phẩm văn học, nghệ thuật Việt Nam với 4 giải pháp thực hiện trong đó có việc sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách Nhà nước. Có lẽ đã đến lúc nhà nước cảm thấy sốt ruột vì tiền của bỏ ra cho lĩnh vực văn học nghệ thuất này không ít mà sao hiệu quả lại quá ít! Nhân đây, tôi có một vài suy nghĩ về việc Nhà nước đặt hàng làm phim trong điện ảnh.

 

Đã từ hơn 10 năm nay từ khi xoá bỏ bao cấp trong điện ảnh, nhà nước có chế độ đặt hàng để làm các phim nhằm phục vụ những nhiệm vụ chính trị đặc biệt, kỷ niệm những ngày lễ lớn v.v….với những khoản kinh phí không nhỏ ( hàng trăm tỷ đồng) nhưng hiệu quả rất ít. Từ đó mới có một thành kiến trong khán giả rằng những phim do Nhà nước đặt hàng là những phim “cúng cụ”, “những phim làm để cất vào kho “. Ấy vậy mà nhiều người vẫn đòi Nhà nước tiếp tục rót tiền vào lĩnh vực này mà không hề có một cuộc tổng kết rút kinh nghiệm nào.

 

Xin nêu ra ở đây những bất cập tồn tại trong việc đặt hàng làm phim của Nhà nước bấy lâu nay:

 

1 - Không xác định đúng đối tượng đấu thầu

      

Bấy lâu nay đối tượng đấu thầu để nhận đơn đặt hàng làm phim của nhà nước là các Hãng phim đứng đầu là các Giám đốc ( nếu trúng thầu sẽ trở thành người chủ tài khoản). Nhưng một tác phấm điện ảnh được làm ra không phải do ông Giám đốc Hãng phim mà do một tập thể những người sáng tạo quy tụ xung quanh người đạo diễn của bộ phim. Chất lượng cũng như cả giá thành của bộ phim tương lai tuỳ thuộc vào tài năng của người đạo diễn cùng các cộng sự của người đó, chứ không phải chỉ là các giám đốc các Hãng phim. Bởi bộ phim là một sản phẩm hàng hoá đặc biệt có tính chất sáng tạo chứ không phải là một sản phẩm hàng hoá thông thường. Người giám đốc và guồng máy sản xuất dưới sự điều hành của ông ta chỉ tạo điều kiện chứ không làm ra giá trị và chất lượng của bộ phim. Khi áp dụng chế độ đấu thầu vào lĩnh vực điện ảnh người ta đã quên đặc thù đó của sản phẩm điện ảnh.

 

Công việc đấu thầu bấy lâu nay diễn ra giữa Giám đốc các Hãng phim với nhau một cách rất hình thức và đa số là chỉ định thầu. Khi đã thắng thầu rồi Hãng phim mới vội tìm đạo diễn và lúc đó ai nhận cũng được, miễn sao có người nhận để kinh phí được rót về. Đây chính là nguyên do dẫn đến việc chất lượng các phim đặt hàng không cao.

 

2 - Quản lý tài chính lỏng lẻo

 

Thực tế quá trình sản xuất phim như hiện nay là một quá trình XIN và CHO. Người XIN là người đạo diễn, người quay phim, hoạ sỹ, nhạc sỹ, thu thanh  v.v…tóm lại là những người làm công việc sáng tác, và người CHO là người làm chủ tài khoản, người nắm tiền của nhà nước để tổ chức sản xuất bộ phim. Lợi ích của hai nhóm người này thường mâu thuẫn với nhau vì động cơ của họ khác nhau. Một bên vì chất lượng của phim cần có những chi phí thích ứng, và một bên cố hạn chế các khoản chi cho phim càng nhiều càng tốt, dành để chi vào những mục đích khác. Trong cuộc đấu tranh này thì phần thắng bao giờ cũng thuộc về người nắm đồng tiền, người chủ tài khoản. Họ muốn chi tiêu thế nào tuỳ ý, không cần có sự bàn bạc với người đạo diễn, miễn sao hợp lý hoá được chứng từ để quyết toán với tài chính.

 

Thực tế cho thấy trong quá trình sản xuất một bộ phim, người đạo diễn mới là người nắm vững hơn ai hết những khoản chi tiêu nào phục vụ cho chất lượng của bộ phim và những khoản chi tiêu nào nằm ngoài mục đích đó. Thậm chí người đạo diễn trong giai đoạn quay bằng cách linh hoạt điều chỉnh nội dung mà không ảnh hưởng đến chất lượng của bộ phim, có thể tiết kiệm được rất nhiều cho ngân sách của nhà nước. Ấy vậy mà người đạo diễn không được đóng vai trò gì trong  hoạt động tài chính của bộ phim. Các đại diện của Bộ VH TT & DL và Bộ Tài chính khi quyết định cấp kinh phí, rồi quyết toán sau khi phim làm xong không cần có sự có mặt của đạo diễn, giải ngân trên những chứng từ không có chữ ký xác nhận của người đạo diễn . Đây là một kẽ hở rất lớn trong việc làm phim do Nhà nước đặt hàng. 

 

3 -  Không tôn trọng người nghệ sỹ      

        

Vai trò quan trọng nhất để làm ra một tác phẩm điện ảnh, tạo ra chất lượng nghệ thuật, giá trị của một bộ phim là người đạo diễn cùng những thành phần chủ yếu khác như : Quay phim, Hoạ sỹ thiết kế, kỹ sư âm thanh, Nhạc sỹ, diễn viên v.v….Nhưng trên thực tế những  thành  phần  quan trọng  này chỉ được coi như những người làm công cho ông chủ là người chủ tài khoản nhận tiền của nhà nước đặt hàng. Trước khi làm phim, người ta lập ra một Hội đồng gồm đại diện của Bộ VH TT & DL, Bộ Tài chính, Ủy ban vật giá họp bàn để quyết định cấp kinh phí cho bộ phim. Hội đồng này còn quy định trước các khoản tiền cụ thể dành cho các hạng mục trong quá trình sản xuất bộ phim mà không cần tham khảo ý kiến của đạo diễn, người quyết định chủ yếu tư  tưởng nội dung, chất lượng và cả giá thành của bộ phim.

 

Đối với nhuận bút của các thành phần sáng tác cũng vậy, họ đánh đồng tất cả các đạo diễn như nhau (đạo diễn mới vào nghề cũng như đạo diễn có tên tuổi trong nghề ) rồi quy định một khoản tiền cố định để trả nhuận bút, trong khi Nghị định của CP về việc này quy định rất cụ thể : các thành phần sáng tác được hưởng bao nhiêu phần trăm của Tổng dự toán, có phân loại các mức căn cứ trên chất lượng nghệ thuật của từng bộ phim sau khi làm xong. Khi phát hành những thành phần sáng tác được hưởng bao nhiêu phần trăm Nhà nước cũng có quy định rõ ràng. Tất cả những quy định đó đều được bỏ qua không một lời giải thích.

 

4 - Vi phạm nghiêm trọng Luật sở hữu trí tuệ

 

Mặc dầu hệ thống văn bản pháp luật về quyền tác giả của nhà nước ban hành khá đầy đủ như: Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, Nghị định 100/2006/NĐ- CP  ngày 21/09/2006 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 36/2008/CT-TTCP của Thủ tướng Chính phủ ngày 31/21/2008; Nghị định 47/2009/NĐ- CP của Chính phủ ngày 13/5/2009 v.v…

 

Nhưng tất cả những văn bản pháp quy trên hoàn toàn không được chấp hành trong lĩnh vực điện ảnh. Người nghệ sỹ làm phim xong , nhận những khoản nhuận bút theo quy định của Bộ Tài chính ( thường thấp hơn 5 lần do tư nhân trả) là coi như xong. Người ta kinh doanh khai thác các tác phẩm của mình ra sao không hề được hưởng bất cứ một quyền lợi nào, thậm chí không hề được biết.

 

Không có một cơ quan chức năng nào của nhà nước trong lĩnh vực này (như Cục bản quyền tác giả, Thanh tra Bộ VH TT và DL, Cục điện ảnh, Hội điện ảnh) đứng ra giám sát việc thi hành những điều luật và nghị định đã được nhà nước ban hành. Không có một cơ quan tổ chức nào ( kể cả hội nghề nghiệp của những người làm điện ảnh) đứng ra để bảo vệ quyền lợi của nhũng người nghệ sỹ sáng tạo trong lĩnh vực điện ảnh.

 

Điện ảnh là lĩnh vực mà Luật sở hữu trí tuệ bị vi phạm nghiêm trọng nhất (trong khi trong lĩnh vực âm nhạc luật bản quyền rất được tôn trọng).

 

Để khắc phục những bất cập như đã nêu trên đã đến lúc những người có trách nhiệm với  nghành điện ảnh cần làm những việc cụ thể như sau :

 

1-Sửa đổi quy chế về việc đấu thầu làm phim do Nhà nước đặt hàng. Quy chế đó phải coi trọng vai trò của người đạo diễn, chủ thể sáng tạo làm ra bộ phim, Nhà nước cần đặt hàng làm phim với cả đạo diễn ( chứ không phải chỉ với Giám đốc Hãng phim ). Để tránh sự thất thoát ở khấu sản xuất như thường xẩy ra bấy lâu nay, các chứng từ chi tiêu cần phải có chữ ký xác nhận của Đạo diễn bên cạnh chữ ký của Giám đốc Hãng phim.

 

2-Trong kinh phí đặt hàng làm phim của nhà nước cần có khoản tiếp thị đối với phim do Nhà nước đặt hàng cũng như khoản tiền để sản xuất đĩa DVD để khai thác sau khi phim đã chiếu ở rạp ( khoản này nhà nước nên học tập các nhà sản xuất phim tư nhân).

 

3-Nghiêm chỉnh chấp hành các văn bản pháp luật về bản quyền tác giả do nhà nước ban hành. Thành lập Trung tâm bảo vệ bản quyền tác giả điện ảnh Việt nam.

 

4-Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch cần sớm tổ chức một cuộc Tổng kết  về việc nhà nước đặt hàng làm phim trong vòng 10 năm trở lại đây ( tổng kết về nghệ thuật , về tài chính , về sản xuất v.v… ) với sự tham dự của cả các nghệ sỹ và những người tổ chức sản xuất, đại diện Bộ , Cục và các cơ quan hữu quan .

 

Nếu cứ để việc nhà nước đặt hàng làm phim như hiện nay thì có đổ thêm bao nhiêu tiền của cũng vô ích, chỉ có lợi cho khâu trung gian. Kết cục chúng ta vẫn không có những tác phẩm xứng đáng với sự mong đợi của khán giả, xứng đáng với đồng tiền mà Nhà nước bỏ ra.

 

Đạo diễn- NSND Đặng Nhật Minh