Điều ít biết về làng tranh nổi tiếng nhất xứ Đoài bị xoá sổ trong trận lụt Ất Mão
(Dân trí) - Xứ Đoài - Hà Tây cũ từng có một làng tranh nổi tiếng khắp vùng nhờ sự giao thoa độc đáo giữa tranh Đông Hồ với tranh Hàng Trống đó là tranh Kim Hoàng. Tuy nhiên, trận lụt năm Ất Mão (1915) đã cuốn sạch các ván in và nguyên liệu làm tranh khiến cho làng tranh bị xoá sổ một thời gian.
Làng tranh “có một không hai” của xứ Đoài
Tranh Kim Hoàng là tên thường gọi của một dòng tranh dân gian phát triển khá mạnh từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 19 của làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ.
Theo sách “Đồ Họa cổ Việt Nam” dân làng Kim Hoàng di cư từ Thanh Hóa ra Bắc năm 1701 gồm hai làng Kim Bảng và Hoàng Bảng hợp nhất lại. Hai làng này đã xây dựng đình chung “Trưởng bảng hội đình” vào năm Chính Hoà thứ 22 (1701), cũng được xem là thời gian cho sự bắt đầu nghề in tranh của làng.
Theo đó, nhận thấy tranh Đông Hồ chỉ đủ cung ứng cho mạn Hà Bắc, Hải Dương, Nam Định… Tranh Hàng Trống chỉ đủ cho Hà Nội và không thích ứng lắm với nông dân cả về thẩm mỹ và túi tiền, họ quyết tâm tạo ra dòng tranh mới kết hợp cả hai kỹ thuật Đông Hồ và Hàng Trống.
Hai dòng họ Nguyễn Sỹ và Nguyễn Thế đi đầu trong việc tổ chức vẽ và in tranh. Theo truyền thống, khi còn tổ chức phường tranh thì toàn bộ ván là tài sản của phường, do chủ phường giữ, hàng năm đến ngày Rằm tháng 11 âm lịch, sau khi làm lễ giỗ ông Tổ phường, ván được chia cho các gia đình mang về in. Trong quá trình sản xuất tranh Tết, các gia đình có thể đổi ván cho nhau để in nhiều mẫu. Hết mùa ván in lại tập trung giao cho chủ phường giữ.
Các cụ ở Kim Hoàng còn nhớ tranh Tết trước đây có nhiều loại khác nhau, phổ biến nhất là tranh thờ gồm các bức Ông Công (tức Thổ Công), Ông Táo (tức Táo Quân) và Ông Sư (tức Tiên sư). Đấy là ba vị thần mà các gia đình nông dân hay thợ thủ công nào cũng rất sùng kính. Các tranh để trang trí nhà cửa, đồng thời để cầu mong làm ăn phát đạt, may mắn… có các bức: tiến tài, tiến lộc, lợn - gà. Các tranh đi cày và đi bừa vừa nói lên sự lao động vất vả, vừa tỏ ý cầu mong được no ấm.
Vui nhất là những tranh về cảnh sinh hoạt tình tứ của trai gái như hứng dừa, đánh vật, chọi trâu, chọi gà… tỏ rõ một tinh thần thượng võ cao. Lại có cả những tranh mang tính răn dạy theo phương ngôn như: “Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn” hay theo tích truyện hiếu nghĩa trong “Nhị thập tứ hiếu” hoặc vài cảnh trong truyện Nôm dân gian như “Thạch Sanh”. Ngoài ra còn có những bức hoành đại tự “Đức lưu quang” (Đức tốt giữ mãi ánh sáng) và “Phúc mãn đường” (Phúc chứa đầy nhà) mà trong từng nét chữ còn được cài hoa lá, thể hiện cảnh sắc bốn mùa. Cùng với những hình ảnh, trong nhiều tranh còn khắc kèm cả bài thơ hoặc câu đối hay một lời chúc tụng để nói rõ chủ đề của bức tranh.
Màu của tranh, ngoài màn nền, trước hết là “màu đen” in từ ván gỗ lên giấy. Màu này lấy từ những thỏi mực đen mực tàu. Bảng màu ở Kim Hoàng cũng giống như Đông Hồ còn có: trắng, vàng, xanh lơ, xanh lá cây (xanh lục), chàm, tím, hồng, đỏ sẫm.
Trừ màu chàm mua nguyên liệu về chế lấy, các màu khác đều có bán ở thị trường. Muốn có màu chàm thì đem cây chàm ngâm riêng cành và lá, sau đó chắt bỏ nước trong, rồi gạn lấy chất cái đánh nhuyễn ra. Màu chàm thường trộn với mực đen để tạo ra thứ màu xanh đen. Màu trắng thì mua phấn thạch cao, ngâm nước cho mềm rồi đánh nhuyễn. Các màu trên, khi dùng phải pha keo da trâu. Khó pha nhất là màu phẩm hồng, pha khéo thì được màu cánh sen tươi, không đúng cách thì chuyển thành màu máu đỉa.
Ngoài ra tranh Kim Hoàng có một điểm đặc biệt là những câu thơ Hán tự được viết theo lối chữ thảo trên góc trái bức tranh. Cả thơ và hình tạo nên một chỉnh thể hài hòa, chặt chẽ cho tranh.
Sau khi chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu, lễ giỗ Tổ phường được diễn ra, các gia đình nhận ván về, cả nhà tập trung vào in và “chấm phẩm”. Quy trình in cũng có nguyên tắc chung như in tranh Đông Hồ. Ván in để ngửa, dùng chổi thông, nhúng vào chậu mực, rồi quét lên ván gỗ, sau đó đặt úp tờ giấy đỏ lên mặt ván dùng xơ mướp tấm sáp hoặc nén, xoa phía trên tờ giấy, cho nét và màng hình đen từ ván in dần lên mặt giấy.
Bóc giấy ra sẽ được tranh đen trên nền giấy đỏ. Nét ở tranh Kim Hoàng do không in lên giấy điệp (có gợn gồ ghề hơn) nên đen tuyền, mịn, mượt chứ không được rỗ xốp như “màu đen” ở tranh Đông Hồ. Đã có hình in đen rồi, dựa vào những phần mảng của nét để từ các màu khác mà nhân dân địa phương gọi là “chấm phẩm”. Về hình thức này, thì tranh Kim Hoàng lại khá giống với Làng Sình.
Cả làng tranh bị xoá sổ sau trận lụt Ất Mão
Tranh Kim Hoàng bắt đầu làm từ sau lễ giỗ tổ cho đến giáp Tết. Thời tiết giá rét làm cho phẩm pha vào keo sẽ đông quánh vì thế bát màu phải đặt trên bếp nóng để vẽ. Nếu bếp nóng quá, màu phạm sẽ không tươi mà bị xỉn lại. Các màu sa thanh và sa lục là bột đất, nên sau khi chấm màu mà để khô thì sẽ hơi nháp.
Chấm màu xong, các nét in ban đầu bị phủ đè gần hết, nên giữa các mảng màu không còn đường bờ gìm giữ lại, sẽ bồng bềnh, chao đảo. Muốn tăng hiệu quả nghệ thuật phải được nâng cao bằng kỹ thuật in đồ, tức in lại nét đen lên trên các mảng màu, in sao cho trùng với nét đen in ban đầu. In đồ là việc khó, chỉ những người cứng tay nghề mới làm được.
Đến những ngày giáp Tết xưa, không khí làm tranh lại càng nhộn nhịp ở các gia đình làm tranh, mọi người làm việc tất bật, làm ngày rồi tối đến lại chong đèn ba dây mà chấm phẩm. Sau một tháng làm tranh, đến ngày rằm tháng Chạp thì phường làm lễ Thánh sư, rồi mới mang tranh đi bán. Tranh bán rộ nhất là từ ngày Tết ông Táo (23 tháng Chạp).
Tranh Kim Hoàng được quẩy về các chợ như: Sấu Giá, chợ Sơn Đồng, chợ Chùa Thầy, chợ Phùng, chợ Vạng, chợ Trám Trôi, chợ Canh, chợ Diễn, chợ Tây Tựu … Thời thịnh nhất, mỗi chợ có đến 5-10 chiếu tranh. Theo các cụ kể lại những năm phát đạt, đi chợ bán tranh về phải được một gánh tiền Tự Đức nặng.
Tuy nhiên, năm Ất Mão (1915) trận vỡ đê Liên Mạc gây ngập lụt một vùng rộng từ Phùng về Cầu Giấy đã cuốn trôi mất nhiều ván in. Một vài người dân, vì tiếc ván làm tranh đã cố giữ lại được vài ván in nhưng sau do đói kém, rét mướt, đành bán đi hoặc biến chúng thành củi để sưởi ấm.
Từ đó nghề vẽ tranh Kim Hoàng cũng ngày càng sa sút, cho đến sau Cách mạng tháng Tám, người ta hoàn toàn không sản xuất nữa. Vì thế trong nhiều năm, tranh đỏ Kim Hoàng hầu như đã bị lãng quên và xem là thất truyền. Mãi đến năm 1975 - 1976, dòng tranh này mới lại có dịp được giới thiệu trước công chúng.
Ngày nay, một vài ván in của dòng tranh này còn được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Một số khác được in trong tài liệu xuất bản của người Pháp. Điều này cho thấy việc nghiên cứu, sưu tầm, phục hồi dòng tranh dân gian Kim Hoàng đặc sắc này là vô cùng khó khăn nhưng rất cần thiết để gìn giữ các giá trị văn hóa của Thăng Long - Hà Nội.
Sống lại “hồn vía” Kim Hoàng
Trước năm 2015, nhà sưu tầm Thu Hòa bắt đầu triển khai dự án khôi phục làng nghề Kim Hoàng. Tháng 11/2016 một số bản tranh của làng Kim Hoàng đã được bán trên thị trường.
Với tình yêu di sản, đau đáu với việc phục dựng lại dòng tranh này, bà Nguyễn Thu Hòa hơn 3 năm qua đã bỏ công, sức để phục hồi lại làng tranh.
Những ngày khởi đầu, bà Hòa lặn lội về Kim Hoàng, tìm tới nhà các bậc cao niên, những người con của dòng tộc Nguyễn Sỹ… những mong thấy được manh mối về nghề nhưng mọi thứ đều mờ mịt. Không nản chí, bà Hòa tiếp tục thực hiện những chuyến điền dã tại quê hương Kim Hoàng, mặt khác chị tích cực khảo cứu thông tin, tư liệu về nghề qua các kênh khác. Không phụ lòng người, cuối cùng cơ hội cũng mở ra cho nhà sưu tầm trong một lần tình cờ chị tìm được cuốn sách rất quý về các dòng tranh ở Việt Nam, trong đó có đầy đủ bộ tranh dân gian Kim Hoàng của một tác giả người Pháp.
Gần như cùng lúc, một người dân ở làng Kim Hoàng cũng tìm thấy 3 mộc bản cổ, khắc tranh “Đức Lưu Quang” và “Phúc Mãn Đường” bị bỏ quên từ rất lâu. Được mục sở thị ván khắc cổ, biết được khổ tranh, nét chạm, bà Hòa nhanh chóng cậy nhờ những người có chuyên môn dựng lại bản khắc mới rồi tiếp tục tìm hiểu về chất liệu giấy, nguyên liệu in… những thành phần làm nên hồn cốt của một bức tranh Kim Hoàng.
Bà Thu Hoà chia sẻ: “Phục dựng tranh không đơn thuần là tạo ra một sản phẩm giống với bản gốc mà còn phải bảo đảm cả những yếu tố đi kèm để phản ánh được đầy đủ, chân thực nhất sự tinh xảo, tính thẩm mỹ, kỹ thuật điêu luyện tích lũy trong tác phẩm, giúp người xem cảm nhận được chiều sâu văn hóa của đất nghề. Muốn làm được chính xác như vậy, những gian nan của hành trình này vẫn chưa kết thúc”.
Tết Đinh Dậu (2017) tranh Kim Hoàng đã xuất hiện trở lại và được công chúng đón nhận, các nhà chuyên môn đánh giá cao, dân làng Kim Hoàng ủng hộ bà Nguyễn Thu Hòa thực hiện dự án phục hồi nghề tranh.
Hiện nay, bên cạnh đình làng Kim Hoàng, bà Thu Hòa đã được chính quyền và nhân dân cho mượn địa điểm để làm nơi sản xuất, truyền dạy nghề làm tranh. Vừa qua, nghệ nhân của làng tranh Kim Hoàng đã sang Hàn Quốc để giới thiệu với bạn bè quốc tế.
Trong các mẫu tranh Kim Hoàng có nhiều mẫu là những linh vật như gà, lợn, ngựa.... và Tết Mậu Tuất (2018), bà Thu Hòa đã nghiên cứu tạo ra mẫu tranh Nghê - Linh vật Việt nhằm quảng bá biểu tượng linh vật hưởng ứng công văn 2662 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
Hà Tùng Long