10 kỷ lục về biển đảo Việt Nam
Nhân tuần lễ "Biển đảo Việt Nam" (1-6 đến 8-6), Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công bố 10 kỷ lục về biển đảo trên các lĩnh vực lịch sử, địa lý và văn hóa - nghệ thuật.
1. Hoàng Sa, Trường Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam được đặt nhiều tên nhất (Hoàng Sa, Trường Sa, Vạn Lý Trường Sa, Đại Trường Sa, Cát (Kát) Vàng, Cồn Vàng; Phương Tây gọi là Paracel )
Người Bồ Đào Nha, Hà Lan đặt tên Hoàng Sa là Parcel, Pracel (có nghĩa là ám tiêu) ; người Anh đặt tên Trường Sa là Pratlys, người Pháp đặt tên Trường Sa là Spratleys.. .Và đặc biệt ghi chú rõ ràng Paracel là Cát Vàng (bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ, 1838 của Taberd; hoặc Kát Vàng, Cồn Vàng) trong bài báo “Geography of the Cochinchine Empire” của GutzLaff naeng trong The Journal of the Geographical Society of London, vol. the 19th,1849, trang 97).
2. Hoàng Sa - Trường Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam có không gian lớn nhất, dài nhất, rộng nhất, sâu nhất, xa nhất, có nhiều đảo đá nhất
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000km2, giữa kinh tuyến 111 độ Đ đến 113 độ Đông, khoảng 95 hải lý (1 hải lý = 1,853 km), từ 17o05’ xuống 15o,45’độ vĩ Bắc, khoảng 90 hải lý; xung quanh là vùng biển có độ sâu hơn 1000m, song giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m.
Về khoảng cách với đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần đất liền Việt Nam hơn cả:
Từ đảo Tri Tôn đến Mũi Ba Làng An (Cap Batangan:15 độ vĩ B, 108 độ 6’ kinh Đ), tức đất liền lục địa Việt Nam đo được 135 hải lý, cách Cù Lao Ré chỉ có 123 hải lý, trong khi đó khoảng cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải Nam xa tới 140 hải lý (đảo Hoàng Sa - Pattle:16 độ vĩ B, 111 độ 6’ kinh Đ và Ling-Sui hay Leong Soi: 18độ vĩ B, 110 độ 03 kinh Đ); nếu tính tới đất liền lục địa Trung Hoa còn xa hơn nhiều, tối thiểu là 235 hải lý .
Trong khoảng 30 đảo, đá, bãi, cồn, hòn trên, hiện có 23 đã được đặt tên, gồm 15 đảo, 3 bãi, 3 đá, 1 cồn, 1 hòn. Ngòai ra còn vô số mỏm đá.
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa hiện nay tính đến đảo gần nhất vào khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 hải lý, Cam Ranh 250 hải lý, đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan Thiết) 270 hải lý.
Quần đảo Trường Sa trải dài từ vĩ độ 60 2 vĩ B tới 110 28 vĩ B, từ kinh độ 1120 Đ đến 1150Đ trong vùng biển chiếm khoảng 160.000km2 - 180.000km2. Biển tuy rộng nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi lên khỏi mặt nước lại rất ít, chỉ tổng cộng khoảng 11 km2.
3. Hoàng Sa, Trường Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam được vẽ nhiều nhất trên tất cả các bản đồ cổ và hiện đại của Việt Nam và Quốc tế.
Người dân thành phố xem bản đồ cổ thể hiện chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa tại đường sách Tết Giáp Ngọ 2014. Ảnh: K.Khánh
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã sưu tầm và đang lưu giữ hàng trăm bản đồ cổ ở các nước Phương Tây cũng như Việt Nam,Trung Hoa vẽ về Parcel, Pracel hay Paracel, Spratleys, Spartlys tức Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Với 50 bản đồ mô tả nước Việt Nam với thềm lục địa và Biển Đông ấn hành suốt từ 1525 đến 1886, chúng ta thấy dần dần sự hiểu biết của thế giới về đất nước Việt Nam ngày một chính xác, cả về hình thể, lẫn địa danh (trong đó, gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa).
4. Lễ hội dân gian duy nhất có từ xa xưa mô tả những khó khăn, gian khổ nhưng rất oai hùng của những người lính Việt Nam canh giữ chủ quyền biển đảo Hoàng Sa – Trường Sa.
Lễ hội Hoàng Sa được tổ chức tại Miếu Hoàng Sa ở làng An Vĩnh, xã An Hải, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 20 tháng 2, âm lịch hằng năm. Thời Chúa Nguyễn (Thế kỷ 17-18) đến thời vua Gia Long, Minh Mạng…(TK 19), tại Lý Sơn, Quảng Ngãi có thành lập một đội lính Hoàng Sa để vượt biển bằng những chiếc thuyền nhỏ bé, đi tuần tra ở những hòn đảo xa xôi ngoài khơi Thái Bình Dương, đó là quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Đội lính này một đi không trở lại vì ngoài khơi sóng gió, bão bùng làm tàu thuyền bị đắm. Người lính Hoàng Sa nhận nhiệm vụ ra đi là coi như đã chết. Cho nên người dân Quảng Ngãi đến nay vẫn còn lưu truyền câu ca dao :
“Hoàng Sa trời nước mênh mông,
Người đi thì có mà không thấy về.
Hoàng Sa mây nước bốn bề,
Tháng hai khao lề tế lính Hoàng Sa.”
Bởi vậy, trước khi lên thuyền ra khơi, đội lính này làm lễ tế thần tại một ngôi miếu có thờ Cốt ông Hoàng Sa (xương cá voi), gọi là Thần Hoàng Sa do những người lính Hoàng Sa đưa về từ quần đảo này cách đây chừng 300 năm.
Hằng năm vào ngày 20, tháng 2, âm lịch tức là ngày những người lính Hoàng Sa chuẩn bị xuống thuyền, người ta thực hành Lễ khao lề thế lính với ý nghĩa cầu mong cho người ra đi được bình yên trên dặm dài sóng nước để trở về cùng gia đình. Đến 9 giờ đêm 20, tháng 2, người ta mổ heo, gà và đến nửa đêm lễ tế chính sẽ được bắt đầu và kéo dài khoảng vài tiếng đồng hồ. Ngoài những lễ vật như heo, gà vừa kể, người ta còn thấy có cả gạo, muối, mắm, củi, nồi niêu…là những vật dụng mà trước đây lính Hoàng Sa phải mang theo. Đặc biệt trong lễ hội này còn có các linh vị và các hình nộm ở trên có danh tánh người lính Hoàng Sa đã bị tử nạn.
Tất cả những lễ vật, linh vị và hình nộm đều được đặt vào trong một chiếc thuyền có đốt nhang, đèn sáng rực. Sau khi thầy pháp cúng tế xong, chiếc thuyền được 4 thanh niên khỏe mạnh khiêng xuống biển và thả trôi mất tăm, mất tích. Lúc này cũng chừng khoảng 3 giờ sáng.
Đây là một lễ hội nhằm ghi nhớ công lao của những người lính Việt Nam đã hy sinh thân mình để canh giữ biển đảo Hoàng Sa – Trường Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam đã được xác định cách đây hơn 500 năm (thời Hồng Đức - 1490).
5. Cuốn sách viết về Quốc hiệu, Cương vực và tập hợp số lượng bản đồ cổ và hiện đại về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nhiều nhất. (Xác lập kỷ lục Việt Nam năm 2013)
Cuốn sách của tác giả Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu do “Nhà xuất bản Trẻ” phát hành năm 2012, là công trình vừa mang tính khoa học, vừa phổ thông; khái quát suốt chiều dài lịch sử hơn 4000 năm của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, để cập nhật vấn đề thời sự, tác giả bổ sung phần về Lãnh hải Việt Nam gồm nhiều tư liệu và bản đồ cổ của thế giới ghi nhận Hoàng Sa - Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam suốt hơn 500 năm qua.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu
Bằng lý lẽ và tài liệu sử học, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã trưng ra một số bản đồ về thềm lục địa và các hải đảo Việt Nam do người Pháp, Bồ Đào Nha, Trung Quốc, Việt Nam... vẽ cách đây hàng trăm năm - trong đó đặc biệt nhấn mạnh về phương diện lịch sử và luật pháp quốc tế để chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam. Gần 100 bản đồ cổ, từ thời nhà Lê thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 19.
Bìa quyển sách của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu sinh ngày 12 tháng 3 năm 1920 (giấy tờ ghi là 1923) tại Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình tín đồ Công giáo nghèo nhưng học rất giỏi. Thuở nhỏ thường theo giúp mẹ kiếm sống và học tại trường tiểu học Pháp - Việt ở cuối phố Huế, Hà Nội. Sau khi học xong bậc Trung học, năm 1939, ông theo học trường Bách Nghệ - Hà Nội và tốt nghiệp năm 1941. Ông là tác giả của hàng trăm công trình nghiên cứu lịch sử, địa
6. Người có công trình nghiên cứu và hồ sơ, tài liệu về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam được dịch sang tiếng Anh nhiều nhất.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã, nhà nghiên cứu sử địa nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh năm 1939 tại Ninh Bình nhưng sống và làm việc tại Sài Gòn.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã
TS Nguyễn Nhã đến với vấn đề chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa là khi Biển Đông nổi sóng dữ dội. Đó là lúc Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa năm 1974. Ông nghĩ, mình phải làm điều gì đó để chứng minh chủ quyền quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam. Và ông bắt tay vào liên lạc với các học giả nổi tiếng Việt Nam trong và ngoài nước. Trong đó có học giả Hoàng Xuân Hãn ở Pháp, Lãng Hồ Nguyễn Khắc Kham ở Nhật, Ông Quốc Tuấn ở Ấn Độ...
Là chủ biên Tập san Sử Địa, một năm sau ngày Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa, ông đứng ra tổ chức cuộc triển lãm sử liệu minh chứng chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam và ra mắt Tập san Sử Địa số 29, đặc khảo về Hoàng Sa - Trường Sa.
Năm 2003, ông trình đề tài nghiên cứu luận án Tiến sĩ cấp quốc gia với chủ đề về “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.” Sau đó, ông đã tham gia viết nhiều tác phẩm, dự nhiều hội thảo trong nước và quốc tế. Trong đó có 4 hội thảo quốc tế về Biển Đông ở Việt Nam và hội thảo tại Đại học Temple, Philadelphia năm 2010, hội thảo tại Đại học Harvard năm 2012, v.v.
Ngoài ra, ông còn tập hợp hồ sơ, tài liệu về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam để dịch ra tiếng Anh hơn 500 trang gồm 3 phần: Phần I : Trích nguyên văn Tài liệu của Quân đội Mỹ năm 1960 về chủ quyền của Việt Nam bị tranh chấp và 37 tài liệu của Phương Tây từ trước thế kỷ 19 nói về chủ quyền của Việt Nam tại Paracel (quần đảo Hoàng Sa). Phần II gồm 3 bài tham luận chọn lọc trong các hội thảo về Biển Đông trong và ngoài nước. Phần III gồm toàn văn Luận án Tiến sĩ sử học “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa” và các phụ lục được cập nhật hóa các tư liệu mới phát hiện. Ông đã đưa tập hồ sơ tài liệu này đến Hội Địa lý quốc gia Mỹ, văn phòng Thượng Nghị sĩ J. Mc Cain, Jim Web và sẽ đưa tới thư viện các trường Đại học trên thế giới.
7. Đạo diễn thực hiện nhiều phim tư liệu và phim truyện có nội dung về biển đảo Việt Nam nhất (Xác lập kỷ lục năm 2012)
Nguyễn Văn Lượng sinh năm 1957, tại Hải Phòng, là đạo diễn chuyên nghiệp của Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng từ năm 1985. Ông đã thực hiện 221 bộ phim về đề tài đất nước – con người miền biển đảo Việt Nam từ năm 1988 đến nay, trong đó có các thể loại: phim truyện, phim tài liệu, phim phóng sự...
Đạo diễn Nguyễn Văn Lượng
Phim của ông mang đậm nét biển đảo quê hương, với nhiều tình tiết, nhiều phân đoạn, phân cảnh… lột tả hết tâm trạng nhân vật, nói lên tình yêu quê hương miền biển đảo của người Việt Nam một cách nồng nàn, sâu sắc. Bàng bạc trong phim của ông là những cảnh, những tình huống mô tả về người Việt Nam dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù phải hy sinh mất mát bao nhiêu cũng hết sức, hết lòng để bảo vệ chủ quyền biển đảo tổ quốc Việt Nam.
Phim của đạo diễn Nguyễn Văn Lượng đã đóng góp không nhỏ trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người biển đảo Việt Nam. Với thành quả ấy, năm 2012, đạo diễn Nguyễn Văn Lượng đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục: "Đạo diễn có số lượng phim về đề tài đất nước – con người miền biển đảo nhiều nhất”.
8. Bài thơ được cộng đồng Kỷ lục gia Việt Nam bình chọn để các nhà thư pháp kỷ lục gia viết thành Bức lụa thư pháp có độ dài kỷ lục đang được trưng bày tại Nhà Truyền thống huyện đảo Trường Sa.
Bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển của tác giả Nguyễn Việt Chiến, ông là một nhà thơ – nhà báo (Báo Thanh Niên-Việt Nam).
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến
Tổ quốc nhìn từ biển được ông viết năm 2009 trong lần dự Trại sáng tác Văn học của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Hạ Long do Tạp chí Văn nghệ Quân đội phối hợp với Cục chính trị quân chủng Hải quân tổ chức với đề tài sáng tác "Biển, đảo và người chiến sĩ hải quân” với sự tham gia của đông đảo các cây bút sung sức trong và ngoài quân đội. Bài thơ thể loại 8 chữ, có tất cả 40 câu, có sức lan tỏa rất nhanh, được rất nhiều trang mạng điện tử trong và ngoài nước cùng hàng nghìn blog đưa lại.
Trong dịp Hội ngộ kỷ lục gia lần thứ 23 được tổ chức tại khách sạn REX (TPHCM), đại đa số kỷ lục gia Việt Nam đã bình chọn bài thơ này để các kỷ lục gia thư pháp viết thành Bức lụa thư pháp trao tặng cho ông Nguyễn Đức Thắng – Chủ tịch UBND huyện đảo Trường Sa. Bức lụa thư pháp kỷ lục Tổ quốc nhìn từ biển hiện đang được trưng bày tại Nhà Truyền thống huyện đảo Trường Sa.
Tổ quốc nhìn từ biển
Sáng tác: Nguyễn Việt Chiến
-----------------------------------------
Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa
…
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn…
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo
Lạc Long cha nay chưa thấy trở về
Lời cha dặn phải giữ từng thước đất
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi
Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể
Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù
Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ
Thương Hòn Mê bão tố phía âm u…
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa
Đã mười lần giặc đến tự biển Đông
Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử
Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng
…
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân
Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình
Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước *
Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi.
Ông đồ - bà đồ bên bức trướng họa thư pháp về biển đảo dài kỷ lục.
9. Thuyền trưởng – Nhạc sĩ viết nhiều ca khúc về biển đảo nhất (Xác lập kỷ lục năm 2013)
Thuyền trưởng – Nhạc sĩ Tôn Huy (Tôn Quang Huy) sinh năm 1942 tại Hà Tĩnh. Năm 1963 tốt nghiệp đại học Hàng hải ở Hải Phòng và được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Sau đó ông xuống tàu lênh đênh trên biển khơi đi đây, đi đó và đã từng là thuyền trưởng trong suốt một thời gian dài. Là người có năng khiếu, đam mê âm nhạc nhạc từ thưở nhỏ, đến thời sinh viên ông tự học nhạc và bắt đầu sáng tác. Khi lên thuyền ra khơi, ông đã viết những ca khúc trữ tình, lãng mạn về biển đảo và sóng trùng dương mênh mông.
Thuyền trưởng - nhạc sĩ Tôn Huy
Năm 1990, ông vào đất liền rồi thi vào Nhạc viện TPHCM. Năm 2000 ông tốt nghiệp Cử nhân Nghệ thuật, từ đó con đường sáng tác âm nhạc của ông rộng mở hơn. Trong hơn 30 năm sáng tác, ống đã viết trên 100 ca khúc, trong đó có 12 ca khúc mang chủ đề về biển đảo tổ quốc Việt Nam gồm: Biển gọi, Khúc hát biển xanh, Em gái đảo xanh, Tình khúc đại dương, Mùa xuân với biển, Đường Bác Hồ trên biển, Sài Gòn mưa nắng, Hải Phòng và em, Chiều Quy Nhơn, Biển tình, Với biển, Tình khúc người đi biển.
10. Ca khúc viết về biển đảo cùng một lúc được hai giải thưởng âm nhạc cao nhất của Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hội Âm nhạc TP Hồ Chí Minh.
Ca khúc Tổ quốc gọi tên mình của tác giả Đinh Trung Cẩn (phổ thơ Nguyễn Phan Quế Mai ). Nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn hiện là Giám đốc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam - Chi nhánh phía Nam.
Nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn
Sau khi đọc, suy ngẫm, thẩm thấu và rung cảm với nội dung bài thơ Tổ quốc gọi tên mình của Nguyễn Phan Quế Mai, nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn đã cảm tác phổ thành ca khúc để hưởng ứng tác phẩm dự thi sau khi lễ phát động viết ca khúc về biển đảo được công bố. Bài hát được viết cung La muneur, nhịp 6/8, điệu thức chậm, nồng nàn, tha thiết... và được các ca sĩ thành danh, nổi tiếng như NSƯT Tạ Minh Tâm, NSND Quang Thọ... trình bày.
Cuối năm 2011, Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hội Âm nhạc TP.HCM đều công bố quyết định trao tặng Giải A (giải cao nhất) cho ca khúc Tổ quốc gọi tên mình.
Theo K.Khánh
Người lao động