Giấc mơ cánh cò
(Dân trí) - Tôi vừa bước xuống xe khách, chiếc xe máy 81 huyền thoại của Hoàng đã đậu xịch trước mặt.
- Chào ông anh, lâu quá rồi đấy!
Hoàng nở một nụ cười tươi rói, vừa đưa tay ra bắt tay tôi.
- Ừ! Phải đến vài chục năm rồi còn gì. Quê chú giờ khác xưa nhiều quá.
- Nông thôn mới mà anh. Anh cứ lên xe đi rồi sẽ thấy quê em còn nhiều cái mới nữa.
Khi cả hai đã yên vị, chiếc xe máy “bịch bịch” nhả khói đen nghi ngút trên con đường bê tông liên xã.
Đoạn quành qua cánh đồng, tôi đưa mắt nhìn ra mênh mông. Đồng vừa đi qua mùa gặt, trơ gốc rạ. Đâu đó trên những chân ruộng trũng thấp thoáng cánh cò trắng muốt. Thực sự choáng ngợp bởi vẻ trong tranh và nên thơ của tạo hóa, tôi khẽ kêu lên:
- Đàn cò đẹp quá!
Hoàng vội xua tay:
- Ối! Cò giả đấy không phải cò thật đâu.
Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, Hoàng chỉ tay về phía cánh đồng.
- Ông có thấy cái đường lưới mờ mờ kia không? Chẳng có sinh linh nào lọt vào đó mà sống sót cả đâu. Cuốc, cò, chim sẻ... người ta bắt tuốt!
Tôi bỗng khựng lại, nỗi buồn không biết từ đâu ùa về...
Tôi nhớ quê mình ngày ấy mỗi năm cũng có hai mùa đánh cò, tầm tháng Ba, tháng Tư ta, ngoảnh đi ngoảnh lại thêm một mùa nữa vào tháng Bảy, tháng Tám. Khi lúa trên đồng chuyển từ màu vàng tươi sang vàng sẫm, người nông dân tất tả bước vào mùa thu hoạch, cha tôi lại sốt sắng chuẩn bị cho một mùa đánh cò.
Đêm về sáng, trời vẫn mưa rả rích, gió thỉnh thoảng xô vào tấm liếp nghe lành lạnh. Tôi trở dậy vẫn chưa muốn rời khỏi cái chăn ấm áp. Cha tôi đã ngồi dưới nhà từ lúc nào, ho đằng hoắng rồi bảo: “Ruốc dậy cho cò ăn đi con!”.
Ông cụ bước vào bếp lấy ra hai cái ống tre dài đã sạm đen lại vì khói bếp và bồ hóng. Tôi dụi mắt miễn cưỡng bước xuống giường, ra vại nước túm cổ mớ nhái lẫn cá con đem cho lũ cò mồi. Mấy chú háu ăn cứ chén luôn cả con, nghẹn bứ nơi cổ họng, một lát sau mới trôi xuống bụng được. Ăn xong quẹt mỏ rúc đầu vào cánh rồi thu một chân lại, cứ thế đứng trên cọc tre lim dim ngủ.
Cha tôi cẩn thận rút ra từng nắm hom tre cũ, dài khoảng hai gang tay người lớn, nhỏ như chiếc đũa xe đạp, chân hom nhọn hoắt như chông. Ông cụ bắt đầu quấn đều nhựa vào nửa thân hom. Ông bảo thứ hom cũ này ăn nhựa đỡ hơn loại hom mới vót. Chuẩn bị xong xuôi, hai cha con lõm bõm bước đi, hai cái bóng đổ dài trên mặt nước loang loáng trắng. Chị tôi xách cái đèn con ra đứng trước cửa, không hiểu vu vơ suy nghĩ điều gì? Hai cái áo mưa va vào nhau loạt xoạt. Ngoảnh lại ánh đèn của chị tôi đã trở nên xa ngái, chúng tôi cũng vừa tiến về phía cánh đồng trước mặt.
Chúng tôi dừng lại trước một khoảnh ruộng vừa gặt xong, cắm hom lên những mô cò đắp vội bằng đất và rạ chiều qua. Hom tre còn được cắm chi chít trên bờ, cò mồi được rải khắp mặt ruộng. Lũ cò máy cho đứng trên cọc tre rồi cắm sâu cọc ấy xuống đất, cách mặt đất khoảng chừng hai mét. Chúng tôi sẽ giật dây cước buộc ở cổ chân chúng mỗi khi có đàn cò sắp bay tới. Đàn cò trên trời không thể nào biết được đó là một cái bẫy.
Xong xuôi chúng tôi trở về túp lều dựng tạm như kiểu nhà của người chăn vịt đồng. Những đám mây đen nặng nề bò vào từ phía biển, gió mỗi lúc càng thổi mạnh. Ánh mắt khắc khoải chờ đợi từng đàn cò bay tới. Cha tôi bảo: “Biển động! Hôm nay cò sẽ bay về nhiều”.
Phải thật tinh mắt mới phát hiện ra một đàn cò, khi nó mới chỉ là một điểm đen nhỏ nơi cuối trời xa. Trong chốc lát chúng đã bay tới gần cánh đồng, rồi như mỏi mệt quá, bay là là mặt ruộng, cuối cùng thì sà xuống hẳn. Người ta bổ nháo bổ nhào ra bắt cò, có đợt cha tôi hai tay nắm chắc hai chùm cò, tống đầy vào một cái lồng lớn.
Quá trưa, chúng tôi lại sắp các thứ đồ lỉnh kỉnh và một lồng cò lớn trở về. Tôi giúp chị vặt lông cò, rồi hai chị em đốt rơm lui cui nướng. Chị tôi cho cò đã nướng vào cái mủng con đậy lá chuối lại đem ra chợ bán.
Thường những ngày đánh cò, xế chiều trời vẫn còn mưa rả rích, gió thổi dạt những đám mây đen vào đất liền. Hai chị em tôi ngó lên trời tìm kiếm những đàn cò hình chữ V bay qua nhà và đếm. Dường như thấy xa xôi quá, chị lại vu vơ nhìn những chú cò côi cút bố tôi cắm ngoài sân.
Thời gian đằng đẵng trôi qua, cha tôi trở về với cát bụi, chị tôi đi lấy chồng, tôi phiêu bạt nơi phồn hoa đô hội. Cánh cò xưa vẫn mải miết bay trong những giấc mơ...
Chiếc xe máy của Hoàng vẫn lao đi bon bon, qua nhiều khúc quành và nhiều cánh đồng. Đâu đó đàn cò trắng xóa cả một vùng, nhưng sao tôi cứ thấy lòng đau. Quá khứ chưa vơi, hiện tại đã lấp đầy.
Hoàng vẫn tiếp tục thao thao nói về con đường bê tông trải nhựa, về những luống hoa khoe sắc ven đường, về cái cổng làng tiền tỷ... Còn tôi, tôi lại thấy lòng cô đơn, hoang hoải. Giá như mỗi nơi đi qua đều là đất lành!
Nguyễn Hòe