Ung thư vú dạng viêm: Hiếm gặp, phát triển nhanh
Ung thư vú dạng viêm có tên như vậy vì da của vú thường nhìn có màu đỏ và bị viêm, gây ra bởi các tế bào ung thư làm tắc các mạch bạch huyết tí hon trong vú và da.
Theo các bác sĩ Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (TP.HCM), các triệu chứng ung thư vú dạng viêm có thể phát triển rất nhanh. Có thể có hiện diện khối bướu hoặc không có. Các triệu chứng có thể gồm:
- Vú có màu đỏ, ấm hoặc sưng lên.
- Da của vú đổi màu hoặc trông giống bị bầm tím.
- Xuất hiện vết lõm hoặc dày da hoặc vú trông sần sùi giống như vỏ quả cam (hay còn gọi là dấu "da cam").
- Vú to lên.
- Vú đau hoặc nhạy cảm đau.
- Ngứa mãi không hết.
- Núm vú bị tụt xuống.
- Sưng hoặc có cục ở nách hoặc cung quanh xương đòn.
Ung thư vú dạng viêm đôi khi khó chẩn đoán, bởi vì những triệu chứng này tương tự như trạng thái lành tính (không phải ung thư) như viêm vú và áp xe vú - là các bệnh thường được điều trị bằng kháng sinh.
Nếu bạn được chỉ định thuốc kháng sinh nhưng các triệu chứng không giảm đi thì bạn sẽ được giới thiệu tới phòng khám vú, tại đó bạn có thể được làm vài xét nghiệm gồm: chụp X-quang tuyến vú; siêu âm - sử dụng sóng âm cao tần để tạo ra ảnh; sinh thiết - lấy mô vú ra để quan sát dưới kính hiển vi. Có thể sinh thiết bằng kim. Bạn cũng có thể được sinh thiết bấm lấy ra một mẩu da tròn.
Nếu bạn bị chẩn đoán ung thư vú dạng viêm thì bạn có thể được làm thêm các xét nghiệm để kiểm tra xem ung thư đã lan ra ngoài vú hay chưa. Các xét nghiệm này gồm: chụp CT hay còn được gọi là CAT scan - sử dụng tia X để tạo ra các ảnh chi tiết toàn cơ thể; xạ hình xương - kiểm tra toàn bộ bộ xương. Nó giúp nhận diện những thay đổi của xương gây ra bởi tổn thương, quá trình làm lành tổn thương hoặc bệnh như là ung thư.
Do ung thư vú dạng viêm có thể phát triển nhanh nên điều trị thường được bắt đầu càng sớm càng tốt. Điều trị thường bao gồm điều trị toàn cơ thể bằng các loại thuốc (điều trị toàn thân) cũng như điều trị vú bị ung thư và khu vực xung quanh vú (điều trị tại chỗ). Có thể sử dụng kết hợp hóa trị, phẫu thuật, xạ trị, điều trị nhắm trúng đích (đôi khi gọi là điều trị sinh học), nội tiết (hormone) và các thuốc bisphophonate phụ thuộc vào hiện trạng riêng từng người bệnh.