7 bệnh ung thư cực kỳ khó phát hiện sớm

Cẩm Tú

(Dân trí) - Việc phát hiện những ung thư khó có thể tạo nên toàn bộ sự khác biệt khi điều trị. Một số ung thư dễ phát hiện hơn những bệnh khác. Những loại ung thư sau đây là khó phát hiện sớm nhất.

7 bệnh ung thư cực kỳ khó phát hiện sớm - 1

Một số ung thư rất khó phát hiện sớm do không có triệu chứng

Ung thư tụy

Theo Hội Ung thư Mỹ, khoảng 7% tổng số ca tử vong do ung thư là ung thư tụy. Vì vậy, có thể nói rằng các chiến lược tầm soát ung thư là rất cần thiết. "Tin tốt là có những công nghệ mới, chẳng hạn như xét nghiệm máu phân tử và các phương pháp tiếp cận mới khác, có thể mở rộng nỗ lực phát hiện sớm đối với loại khối u chưa thể tầm soát được này”, BS David A. Ahlquist, chuyên khoa tiêu hóa và là giảng viên Trường Y Bệnh viện Mayo nói.

Lý do ung thư tụy rất khó phát hiện là vì nó nằm sâu bên trong, ban đầu không gây đau và thường không liên quan đến bất kỳ thứ gì có thể dẫn đến triệu chứng. Ngoại lệ là nếu ung thư tụy xảy ra gần ống mật, dẫn đến tắc mật và vàng da tương đối sớm trong quá trình bệnh. Điều trị ở một số ít bệnh nhân may mắn là một ca đại phẫu, và ở những người bị ung thư được phát hiện muộn hơn, việc điều trị chủ yếu dựa vào hóa trị và hầu hết chỉ tạm thời thuyên giảm.

Ung thư thận

Ung thư thận có thể khó phát hiện vì bệnh nhân thường không được xét nghiệm trừ khi có các triệu chứng, thường bao gồm đau lưng, mệt mỏi mãn tính, sụt cân không rõ nguyên nhân và tiểu ra máu. Vì thận nằm rất sâu bên trong cơ thể, nên không thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được các khối u nhỏ ở thận trong quá trình khám sức khỏe hàng năm. Ngoài ra, không có khuyến cáo xét nghiệm sàng lọc ung thư thận ở những người không tăng nguy cơ. Những bệnh nhân mắc một số bệnh di truyền gây ra sự phát triển của khối u và ung thư, chẳng hạn như hội chứng Von Hippel-Lindau, ung thư biểu mô tế bào thận dạng nhú di truyền và hội chứng Birt-Hogg-Dubé có nguy cơ cao bị ung thư thận. Các bác sĩ có thể đề nghị những bệnh nhân này làm các xét nghiệm hình ảnh thông thường như chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) để tìm khối u thận.

Ung thư phổi không tế bào nhỏ

3/4 số trường hợp ung thư phổi được chẩn đoán khi đã di căn. Và thường bệnh nhân không có triệu chứng cho đến khi ung thư đã phát triển đến kích thước gây ra các triệu chứng ung thư phổi như ho, viêm phổi, khó thở và đã đi vào hệ thống máu và bạch huyết. Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCL) là loại ung thư phổi phổ biến nhất, tuy nhiên rất khó phát hiện sớm vì ung thư phổi giai đoạn đầu thường không có triệu chứng và không được phát hiện khi chụp X-quang phổi. Chụp cắt lớp phát positron (PET) và chụp CT có thể hữu ích trong việc chẩn đoán ung thư phổi. Bác sĩ cũng có thể lấy tế bào ung thư từ dịch tiết phổi, dịch màng phổi hoặc thông qua sinh thiết để chẩn đoán xác định, thường xảy ra ở giai đoạn sau. NSCL có tỷ lệ sống rất thấp nếu được chẩn đoán ở giai đoạn muộn, vì vậy những người có tiền sử hút thuốc lâu năm có thể muốn nói chuyện với bác sĩ về giá trị của chụp CT để giúp phát hiện ung thư phổi ở giai đoạn sớm và dễ điều trị hơn.

Ung thư buồng trứng

Mặc dù ung thư buồng trứng chỉ chiếm khoảng 3% số ca ung thư ở phụ nữ, nhưng đây là loại ung thư gây tử vong cao thứ năm, chiếm số ca tử vong nhiều hơn bất kỳ loại ung thư nào khác của hệ thống sinh sản nữ. Theo Cancer.org, ước tính có khoảng 21.750 phụ nữ Mỹ sẽ nhận được chẩn đoán mới về ung thư buồng trứng chỉ trong năm nay và khoảng 13.940 trong số đó sẽ chết vì căn bệnh này. Giống như các bệnh ung thư khác, chẩn đoán càng sớm thì kết quả càng tốt, nhưng chỉ có khoảng 20% số trường hợp ​​ung thư buồng trứng được phát hiện ở giai đoạn đầu. Điều này chủ yếu là do kích thước và độ phồng của khoang bụng và thực tế là ung thư buồng trứng giai đoạn sớm kích thước nhỏ không có triệu chứng. Bệnh thường được chẩn đoán ở giai đoạn 3 hoặc 4.

U sarcom

Những khối u này của các mô cơ thể, như mỡ, cơ, mô da sâu, xương hoặc sụn, không gây ra các triệu chứng sớm. Mặc dù đây là dạng ung thư cực kỳ hiếm gặp ở người lớn, với chỉ khoảng 1% số ca ung thư ở người trưởng thành là u sarcom, song bệnh phổ biến hơn nhiều ở trẻ em, chiếm khoảng 15 đến 20% tổng số ca ung thư ở trẻ em. Bởi vì chúng không liên kết với bề mặt trong hầu hết các trường hợp, các khối u sarcom có thể trở nên khá lớn trước khi gây triệu chứng. Chúng cũng không tạo ra các chỉ dấu trong máu có thể phát hiện được và nói chung là hiếm gặp và không có quần thể nguy cơ cao, khiến chúng không phù hợp để sàng lọc. Sinh thiết là công cụ chẩn đoán duy nhất và điều trị thường bao gồm phẫu thuật nếu có thể, vì hầu hết các liệu pháp toàn thân hiện có không hiệu quả lắm.

Ung thư não

Ung thư não và u tủy thường được phát hiện nhờ những dấu hiệu và triệu chứng mà người bệnh có thể gặp phải, tuy nhiên, chúng thường biểu hiện giai đoạn muộn. Nếu một khối u phát sinh ở vỏ não vận động, (khu vực não tham gia chi phối cử động tự ý), nó sẽ gây ra sự thiếu hụt đáng chú ý như yếu ở tay hoặc chân. Tuy nhiên, những khối u này thường có thể phát sinh ở các khu vực lân cận, nơi chúng sẽ gây ra các triệu chứng có phần mơ hồ cho bệnh nhân như sự vụng về của bàn tay trong việc thực hiện những nhiệm vụ vận động tinh, yếu đơn thuần hoặc nói khó khó phát hiện.

Bệnh nhân cũng có thể biểu hiện những thay đổi rất khó thấy về tính cách mà chỉ những người thân nhất trong gia đình mới nhận ra. Một trở ngại lớn khác trong việc phát hiện là một trong những triệu chứng phổ biến nhất của khối u não là đau đầu, triệu chứng này phổ biến đến mức thường bị bệnh nhân và thậm chí là bác sĩ bỏ qua. Cho đến nay, chưa có cách tầm soát ung thư não, hạn chế trong các xét nghiệm hình ảnh não như chụp MRI hoặc CT, và tiên lượng rất xấu. Hiện chưa có phương pháp chữa trị nào, mục tiêu của các bác sĩ ung thư thần kinh là bảo tồn chức năng thần kinh càng lâu càng tốt và kiểm soát sự phát triển của ung thư.

Ung thư gan

Do không có triệu chứng nào xuất hiện cho đến giai đoạn muộn, ung thư gan cũng là loại ung thư khó phát hiện. Nếu khối u nhỏ, đặc biệt khó phát hiện khi khám sức khỏe vì hầu hết cơ quan này được che chắn bởi khung xương sườn bên phải. Đến lúc gan đã to ra, khối u có thể đã lan rộng ra khắp gan, vượt quá mức có thể phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn mà vẫn giữ được đủ gan khỏe mạnh. Mặc dù chưa có các xét nghiệm tầm soát ung thư được khuyến nghị rộng rãi đối với ung thư gan ở những người không có nguy cơ, nhưng bác sĩ có thể đề nghị xét nghiệm nếu bạn có tiền sử gia đình mắc bệnh hoặc trước đó đã được chẩn đoán là nhiễm virus viêm gan B (HBV). Nhiều bệnh nhân nghiện rượu phát triển thành ung thư gan sau khi bị xơ gan lâu năm, hoặc bệnh gan.