1. Dòng sự kiện:
  2. Tư vấn tài chính cá nhân
  3. VNDirect bị tấn công

“Ngân hàng không được lợi từ việc cổ phiếu niêm yết tăng giá”

(Dân trí) - Ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Tổng Thư kí Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã cho báo giới biết như vậy khi nói về sức ép cạnh tranh với các ngân hàng đầu tư nước ngoài trong thời kì hậu WTO và việc sử dụng kênh huy động vốn là niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Khi chính thức trở thành thành viên WTO, thị trường tài chính ngân hàng, nhất là lĩnh vực ngân hàng sẽ có nhiều biến đổi lớn. Thời gian qua đã có những sự biến đổi gì, thưa ông?

 

Trước thời điểm trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thị trường tài chính và tiền tệ của Việt Nam chỉ có hệ thống ngân hàng trong nước, sau khi mở cửa đã có những yếu tố nước ngoài dưới hình thức ngân hàng liên doanh và chi nhánh thành thành viên chính thức của ngân hàng nước ngoài mở tại Việt Nam. Tuy nhiên, các ngân hàng trong nước, trong đó là ngân hàng thương mại của Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo có thị phần chi phối, chiếm tới trên 70% thị phần, các ngân hàng thương mại cổ phần cũng chiếm khoảng trên 10%; các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chiếm trên 10% và còn lại là các tổ chức tài chính, tín dụng khác.

 

Sắp tới, bức tranh của các hệ thống tổ chức tài chính cũng như thị trường tài chính tiền tệ của chúng ta sẽ có sự thay đổi, cụ thể là thị phần của các ngân hàng trong nước sẽ giảm xuống và những yếu tố của các ngân hàng nước ngoài sẽ tăng lên dưới những hình thức chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và ngân hàng con 100% vốn nước ngoài.

 

Đây là một sự thách thức đối với các ngân hàng trong nước. Tuy nhiên, đó cũng là yếu tố để thúc đẩy sự phát triển cạnh tranh của các ngân hàng trong nước.

 

Hiện có nhiều ngân hàng muốn có được cổ phần chiến lược của nhà đầu tư nước ngoài. Vì sao?

 

Các ngân hàng của chúng ta thời gian vừa qua đã có rất nhiều nỗ lực trong việc tăng cường năng lực cạnh tranh của mình bằng cách tăng cường năng lực quản trị kinh doanh, tăng cường năng lực tài chính, tăng vốn điều lệ, tăng năng lực hiện đại hóa công nghệ.

 

Một số ngân hàng trong nước cũng mong muốn chọn cổ đông chiến lược nước ngoài để tranh thủ được nguồn vốn của nước ngoài, tranh thủ học tập kinh nghiệm quản lý của các ngân hàng nước ngoài bởi những ngân hàng này đã có bề dày kinh nghiệm và phát triển trước chúng ta rất nhiều. Tuy nhiên, trong quy chế của mình cũng như trong cam kết của Việt Nam đối với việc gia nhập WTO thì tổng số cổ phần của các tổ chức nước ngoài tham gia vào trong ngân hàng thương mại không được quá 30%.

 

Đó là ngân hàng nước ngoài được tham gia vào thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam với nhiều hình thức khác nhau, tức là các chi nhánh của họ đã có được 100% vốn rồi, các ngân hàng liên doanh có thể được tham gia với mình không quá 50% trong vốn ngân hàng liên doanh, còn với các ngân hàng cổ phần khác họ lại được đến 30%, ngoài ra họ lại được mở ngân hàng con vốn 100% của họ nữa. Chúng ta cũng rất rộng mở rồi và trong điều kiện hiện nay thì mức 30% đối với việc tham gia của các tổ chức nước ngoài vào tổ chức tín dụng Việt Nam là hợp lí.

 

Trong thời điểm hiện nay, một số các ngân hàng trong nước cũng đã được phép để làm thí điểm có cổ đông nước ngoài tham gia vào trong vốn điều lệ của mình. Tuy nhiên, trong thực tế thì Nhà nước vẫn chưa cho phép đến 20%?

 

Cam kết của chúng ta như tôi đã nói, nhưng lộ trình thì phải từ từ. Bởi việc tham gia góp vốn của các cổ đông nước ngoài, bên cạnh ưu điểm là sẽ giúp các ngân hàng chúng ta có điều kiện để phát triển tốt, cả về năng lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm quản lý lẫn các bạn hàng chiến lược. Tuy nhiên, các ngân hàng nước ngoài cũng có sự lựa chọn một số ngân hàng tương đối đáp ứng các điều kiện của người ta, đó là những ngân hàng lành mạnh, có quy mô nhất định chứ không phải ngân hàng nào họ cũng muốn tham gia.

 

Đa số các ngân hàng Việt Nam quy mô vốn và trình độ quản lý còn thấp, nên họ  có xu hướng hợp tác với các đối tác nước ngoài. Liệu đây có là xu hướng tốt hiện nay?

 

Không chỉ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng mới có xu hướng hợp tác với các đối tác nước ngoài, mà là xu hướng chung của thời kì hội nhập và cũng không riêng gì Việt Nam, các quốc gia trong khu vực đều có sự hợp tác như vậy mới tiến triển nhanh được. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, bất cứ lĩnh vực nào cũng cần phải có sự hợp tác để học tập những kinh nghiệm nước ngoài, tất nhiên việc hợp tác này có nhiều dạng khác nhau. Không chỉ là việc góp vốn, mua cổ phần lẫn nhau, thuê chuyên gia cao cấp mà còn nhiều hình thức khác nữa. Trong thực tế mà nói, việc hợp tác này rất đa dạng, có thể cùng triển khai như hoạt động thẻ giữa ngân hàng Việt Nam với các tổ chức nước ngoài, các đại lý cung ứng dịch vụ này, đồng tài trợ những dự án tại Việt Nam.

 

Trước khả năng phải chịu sức ép cạnh tranh với các ngân hàng đầu tư nước ngoài trong thời gian tới, các ngân hàng Việt Nam có coi việc niêm yết trên thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn nhanh chóng nhằm tăng khả năng tài chính của mình không, thưa ông?

 

Thật ra, việc tăng năng lực tài chính của mỗi ngân hàng có nhiều hình thức khác nhau: cho các cổ đông nước ngoài góp vốn vào, huy động vốn của các cổ đông, niêm yết trên thị trường chứng khoán để huy động vốn công chúng. Mỗi một hình thức này đều có ưu điểm riêng.

 

Riêng đối với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, đây là một kênh huy động vốn của công chúng bằng cách niêm yết cổ phiếu trên thị trường. Hình thức này được đông đảo công chúng tiếp cận nên việc tăng bao nhiêu các ngân hàng phải tính toán, bởi sẽ có áp lực về mặt cổ tức. Chứ không phải ở thị trường chứng khoán nào khi cổ phiếu tăng gấp 3-4 lần mệnh giá thì ngân hàng đều được hưởng lợi đâu. Ngân hàng chỉ được lợi là cái tiền phát hành ban đầu, còn lại mọi giao dịch là các nhà đầu tư và các bên liên quan hưởng với nhau. Bản thân ngân hàng không được lợi từ việc niêm yết cổ phiếu khi nó tăng giá.

 

Đã có một vài ý kiến lo ngại về tính bền vững của cổ phiếu ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán, xin ông cho biết đánh giá của mình?

 

Tôi chưa nghe ý kiến nào lo ngại về cổ phiếu ngân hàng trên thị trường cả. Tôi suy nghĩ thế này, các cổ phiếu ngân hàng trên thị trường chứng khoán chính thức hiện nay có mức tăng trưởng cũng chưa cao nhiều so với một số cổ phiếu khác. Việc lựa chọn cổ phiếu nào là phải xem xét đến yếu tố quản lý. Bản thân các ngân hàng, yếu tố quản lý giám sát là một trong những tổ chức bị giám sát cao nhất, chặt chẽ nhất và đòi hỏi minh bạch nhất. Riêng yếu tố này thì các cổ đông hãy yên tâm, vì các ngân hàng hiện nay đã đáp ứng đủ mọi yêu cầu về mặt kiểm toán, kiểm tra nội bộ và công khai minh bạch những yêu cầu khác nữa. Tôi nghĩ, đây là một trong những yếu tố để xác định sự tin tưởng của những người nắm giữ cổ phiếu của các ngân hàng.

 

Xin cảm ơn ông!

 

An Hạ (ghi)